Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.092
123.231.859
 
Thơ đồng bằng vẫn tiếp tục khởI sắc
Hồ Tĩnh Tâm

Tôi đọc thơ của bạn bè không nhiều, bởi chủ yếu là đọc trên các báo và tạp chí; tuy nhiên, thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được một vài tập thơ mới của bạn bè gởi tặng. Đó là tất cả vốn liếng thơ đồng bằng châu thổ sông Mê Kông mà tôi có.

 

Thơ là một hiện tượng độc đáo của văn học, ở cơ chế vận hành bộ máy ngôn ngữ mà tất cả nhân loại trên hành tinh đã sử dụng. Sự giàu có về chủng tộc và dân tộc trên hành tinh làm nên sự giàu có về ngôn ngữ thơ, phong cách thơ. Mọi hệ thống  ngôn ngữ đều có những nét phổ quát chung, và có những nét đặc trưng riêng, do ảnh hưởng bởi những tập quán, những truyền thống sinh hoạt và những đặc điểm riêng về loại hình ngôn ngữ. Chẳng hạn, hệ thống ngôn ngữ đa âm tiết và hệ thống ngôn ngữ đơn âm tiết, đều có những nét phổ quát chung giống nhau, nhưng cũng có những nét đặc trưng rất riêng biệt. Nước Việt Nam ta có chiều dài lịch sử 4000 năm và chiều dài địa lý đường biển hơn 2.600 km, điều đó đã làm nên sự giàu có và phong phú của đặc điểm ngôn ngữ ba miền.

Tôi nhớ, lúc còn học phổ thông hệ 10/10 ở miền Bắc, tôi rất thích ba câu thơ của Lê Anh Xuân:

 

Nước ròng

Gặp em đi xúc cá

Tưởng lại về nấu canh chua

 

Bấy giờ, tôi chưa có khái niệm về nước ròng, nước lớn, nước kém, nước rong, nước đứng, nước dổ, nước son, cũng như tôi chưa hình dung ra hình ảnh đi xúc cá; với tôi, chỉ có đánh cá, câu cá, kéo cá, bắt cá. Bởi vậy, mấy câu thơ ấy in đậm vào trí nhớ của tôi. Và tôi nghĩ rằng: Thơ là một hình thức tổ chức ngôn ngữ hết sức “quái dị”, nó buộc người đọc phải nhớ, phải cảm, và phải suy nghĩ. Nếu thơ không gây được dấu ấn thì người đọc không thể  nhớ được; mà không nhớ thì lấy gì để cảm, để suy nghĩ về những ý tưởng mà bài thơ muốn đem lại cho người đọc.

 

Khoảng năm 1991, họa sĩ Tín Đức đem đến cho tôi mấy bài thơ của một tác giả trẻ ở Vĩnh Long, nhờ tôi giới thiệu tại đêm thơ của thư viện khoa học tổng hợp Vĩnh long. Tôi đọc đi đọc lại mấy lần mà chẳng hiểu được gì cụ thể, nhưng lại rất thích. Thích bởi vì nó lạ đối với thói quen tư duy của tôi. Lâu quá, tôi không còn nhớ được nữa- mà đúng hơn, lúc bấy giờ tôi cũng không nhớ được- đại loại nó có diện mạo như thế này:

 

Chị về cỏ rối leeng keeng tóc

Dậu nát mòn tênh xẫm cuối chiều

 

Hỏi thì Tín Đức nói: ai muốn hiểu sao thì hiểu, ăn thua là có cảm dược không. Rồi Tín Đức bật mí: tay này mới hai mươi tuổi, vừa được báo tuổi trẻ giới thiệu là một gương mặt thơ trẻ, có giọng điệu riêng. Ra là vậy. Tôi đưa thơ anh ta cho vợ tôi đọc. Bà xã đọc xong thì phì cười: “Anh sống ở miền Nam từ 1972 đến giờ mà không biết, trước giải phóng, kiểu thơ này thiếu gì”. Sau này tôi đọc cuốn “Văn học miền Nam trong lòng Mỹ – Ngụy” của Trần Trọng Đăng Đàn mới biết, qủa là ở miền Nam từng tồn tại rất nhiều dòng thơ khác nhau. Kiểu như:

 

Cúc ơi Cúc

Cho anh rúc

Vô lút

 

Hay:

 

Đôi khi ta muốn lên cung quảng

Đái ngay một bãi xuống mặt trăng

 

Điều đó khiến tôi nhớ tới thơ của Hoàng Hưng: “Em đi đùi ấm, vú ấm; kẽ xanh rêu”. Năm 2000, tôi gặp Nguyễn Đức Hạnh tại Trại viết Thăng Long, bấy giờ nhà thơ trẻ này đang về Hà Nội chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ văn học, có tên gọi là: “Ảnh hưởng của ca dao Việt Nam trong thơ Việt Nam hiện đại”. Biết anh ta từng được tặng giải nhì về thơ của tuần báo Văn nghệ trẻ, tôi lôi ngay hai câu thơ mà tôi thích nhất trong một bài thơ rất hay của Hạnh ra mà chê, rằng: “Thơ của thằng quái nào quái đản tới không chịu nổi, vậy mà nghe đâu được Hội đồng thơ trao giải”. Hạnh nói: “Ừ, thơ bây giờ quái đản lắm! Đọc như bị đấm vào tai cũng có, đọc như bị hiếp dâm cũng có, đọc lục cục lòn hòn như bánh xe luna chạy trên mặt trăng cũng có. Đâu, ông đọc thơ nó nghe xem nào!”. Tôi đọc hai câu thơ của Hạnh:

 

Người về cỏ mọc lối cà sa

Nắng vẫn gầy khô dưới bí bầu

 

Hạnh nghe xong, tròn mắt nhìn tôi, nói:

- Ông đếch biết cảm thơ. Hay như thế mà ông đếch biết. Chắc ông chỉ thích thơ như vè chứ gì. Phải hiệp vần này. Phải cân phương câu cú này. Phải rõ ràng mạch lạc này. Năng lượng thơ tiềm ẩn trong ý tưởng, ông biết chưa! Tối nay, chịu khó thức đọc “Marahatta đã nói như thế” của Nigch đi!

Hạnh đưa cho tôi cuốn sách của Nigch, và không quên nói rằng, cả Hê ghen, cả Các mác cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của nhà triết học cổ đại Đức này. Tôi đọc hùng hục cả đêm, rồi dựa vào ý tưởng về thơ của Nigch, tôi viết một bài thơ. Ngay sáng hôm sau tôi đem bài thơ ấy tặng cho nhà văn Phạm Như Bình.

 

ĐIỀU VÔ LÝ CHƯA THÀNH THƠ TẶNG EM

                                    Hồ Tĩnh Tâm

       (“sự thật đôi khi rất vô lý như chính tồn tại của nó”)

 

Chỉ cần một ngày hay một buổi,

             có khi chỉ cần một giờ,

                    hay một phút hoặc một giây

sống hết mình đã đủ giúp ta

             say tới tận cùng

                    muôn ngàn ý tưởng,

……….

Và có khi hơn cả một ngày,

         cả triệu ngày,

                  cả triệu năm ánh sáng

cũng không đủ để cho ta thét gào điên loạn;

em hãy giết ta đi bởi vì ta cần sống

gã ăn mày hành khất giữa cô đơn. 

 

                               Hà Nội, tháng 8 năm 2000       

 

Như Bình đọc xong, nhìn tôi nói:

- Cái này mà là thơ à? Đồng ý, muốn xây cái mới thì phải phá cái cũ. Nhưng anh với Như Bình, ai là trái xanh, ai là trái chín?

Tôi cười mà trả lời:

- Văn xuôi còn thành thơ nữa là văn vần. Tôi chỉ muốn nói, trái chín thì phải rụng; bởi có rụng xuống đất thì mới có điểm tựa để mọc mầm cho cây mới. Vậy thôi!

Trở lại vấn đề thơ của đồng bằng, tôi nhớ năm 1987, tôi có viết một bài cho Đài phát thanh Vĩnh Long, nhân dịp ngày quốc khánh 2 tháng 9, nói về cái mới. Trong bài ấy, tôi có nhấn mạnh rằng: cái mới là cái ở phía trước, luôn luôn ở phía trước; khi ta đã có nó, thì nó là cái cũ, cái nền tảng để ta tiếp tục vươn tới cái mới. Trong bài này, tôi có dẫn mấy bài thơ của một tác giả trẻ ở Vĩnh Long, là Huỳnh Thanh Hồng.

Tôi xin dẫn ra đây vài đoạn thơ của anh.

 

Đường gập ghềnh đạp xe không biết mỏi

Bởi nhớ thương nên về với ngoại ô

Ăn cơm trắng với canh bông so đũa

Bàn tay em tôi mắc nợ suốt đời

                      (Tr. “Với ngoại ô”)

 

Tôi chưa từng đi qua chiến tranh

Thuở quê hương gồng gánh nỗi đau

Tôi lớn lên từ những khúc dân ca

Khoan nhặt tiếng đờn kìm đêm đêm

Thời gian đi qua, năm tháng đi qua

Bom đạn mấy mươi năm

Bông súng trắng trên đồng

Mẹ nuôi con giãi dầu năm tháng

Lặn lội thân cò quãng vắng đồng xa

                   (Tr. “Cám ơn đất nước”)

 

Có người nghe xong, nói với tôi: “Thơ gì toàn cơm, canh, nghe xưa như trái đất”. Tôi không dám tranh luận về vấn đề này, bởi tôi sống từ nhỏ bằng cơm và canh; còn anh ta, biết đâu anh ta ăn bánh mì với súp của người Châu Âu, Châu Mỹ. Đã không cùng tiêu chí thì không thể tranh luận được. Tôi chỉ mừng rằng, anh ta chưa chê đoạn thơ sau của Thanh Hồng, tất cả có chín câu mà chỉ có một câu kết bằng thanh trắc; lại chẳng chú ý gì đến sự hiệp vần cả. Bởi nếu anh ta đụng vào vấn đề này, thì chúng tôi lại phải rắc rối bàn về học thuật. Mà như vậy thì khổ lắm. Huỳnh Thanh Hồng có dùng học thuật để làm thơ đâu. Bài thứ nhất anh ta viết tặng cô bạn gái. Bài thứ hai anh ta viết tặng mẹ, tặng tổ quốc.

Tôi nhớ, nhà thơ Nguyễn Bạch Dương có bài thơ chỉ 16 chữ, đọc xong là nhớ được luôn; và cũng bởi dễ nhớ nên tôi thích.

 

Lời như bông bí

Nói rồi héo khô

Tình như không khí

Trong veo mơ hồ.

 

Tôi nghĩ, với thơ là phải nhớ, phải cảm và phải nghĩ. Trong ba mục đích ấy, nhớ là đầu tiên và quyết định. Bởi vì, đọc xong mà ta quên ngay hình thức diễn đạt của thơ thì lấy gì mà cảm, mà suy nghĩ. Hình thức diễn đạt là chỗ dựa của trí nhớ. Hơn 20 năm trôi qua mà tôi vẫn nhớ hai đoạn thơ ấy của Thanh Hồng, là bởi nó dễ nhớ, chứ không phải vì nó có hiệp thanh, hiệp vần hay không, nó có tuân theo quy tắc của một thể loại thơ nào hay không. Cảm xúc do thơ gây nên rất khác so với cảm xúc do văn xuôi gây nên; đồng thời nó cũng không hề giống với cảm xúc từ thực tế cuộc sống. Bông súng, bông so đũa, cây đàn kìm, bát cơm trắng và con cò là thực tế hiện diện trong cuộc sống, nó đem lại cho tôi cảm xúc khác; khi vào thơ của Thanh Hồng, những thực tế ăm ắp ấy đem đến cho tôi cảm xúc mới hơn, mãnh liệt hơn, bởi vậy mà tôi thích. Còn vì sao tôi nhớ, là vì nó gần gụi với cuộc sống thật của tôi. Chẳng hạn, chỉ vài câu thơ của nhà thơ Lê Chí, mà nó giúp tôi cảm được rất sâu sắc về đường bít bùng tường cao ngang dọc, chia cắt và trói buộc địa ngục trần gian Côn Đảo cả trăm năm.

 

Những con đường

xẻ dọc xẻ ngang

lổn ngổn

đá xanh đá trắng

những ngày thu ít nắng

lá bàng rơi trong gió

lặng trang

Những con đường

như hình dấu hỏi

trải dài

xa suốt đời ta…

                  (“Những con đường lặng im” – Lê Chí)

 

 Chính vì cảm được điều ấy mà tôi nghĩ: cuộc sống qủa là có những bất ngờ ta thấy mà không biết, vì thế nó đáng yêu đến tận cùng máu thịt.

Năm 1988, nhà thơ Nguyễn Bá gởi tặng tôi một tập thơ mới xuất bản. Tôi đọc xong, suốt mấy ngày liền, không hiểu tại làm sao lại cứ nhớ tới dòng sông Santa mà tôi chưa hề biết.

 

Santa ơi, con sông gầy nhỏ nhất

Chảy rưng rưng trong góc ngoại ô nghèo

 

Sự quay quắt buộc tôi phải đạp xe đi tìm. Chẳng có gì thơ mộng cả. Chỉ có hai câu thơ ấy là luôn cựa quậy trong ngực tôi. Buộc tôi phải nghĩ về ngôn ngữ thơ. Sông nhỏ là sông gầy chứ còn gì nữa. Vậy thì sông cạn phải viết là sông mỏng. Vấn đề ở đây là ngôn ngữ thơ được sử dụng như thế nào.

Tôi xin dẫn ra đây bài “Ngã ba nắng xế” của nhà thơ Kim Ba.

 

Bần thần nơi ngã ba nắng xế

Tôi biết tôi chờ đón điều gì?

………..

Trên đường, bóng chiếc xe đò đến trễ

Như hiện thân chính nỗi nhớ của tôi đang lặng lẽ

                    kéo lê qua ngay trước mắt mình!

 

Xét về ngôn ngữ thơ, dường như Kim Ba sử dụng thuần túy ngôn ngữ nói thường ngày, rất ít thấy xuất hiện mỹ từ. Nhưng tại sao lại là mỹ từ? Từ ngữ đứng độc lập đều bình đẳng, chỉ đến khi chúng được tập hợp thành hệ thống văn bản để chuyển tải nội dung dưới hình thức nào đó, bấy giờ chúng mới phát huy giá trị của chúng trong chỉnh thể văn bản. Như vậy, với thơ, phải xem xét ngôn ngữ trong chỉnh thể văn bản hoặc siêu văn bản, mới thấy hết nghĩa hiển thị và nghĩa biểu đạt của ngôn ngữ trong văn bản. So với thơ tiền chiến, Kim Ba đem lại một cách viết mới, rất đời thường trong sinh hoạt ngôn ngữ. Giá trị của bài thơ chính là ý tưởng mà anh muốn biểu đạt thành lời, truyền dẫn thông tin, cũng như gởi thông điệp đến người đọc bằng chính ngôn ngữ nói của anh. Sự chinh phục nằm trong sự giản dị và dễ hiểu.

Có lẽ hiện nay, rất nhiều tác giả thơ ở đồng bằng đang sáng tác theo chiều hướng này. Nó là một diện mạo khá đặc trưng, rất cần được khẳng định.

Xin dẫn ra đây bài “Lục Vân Tiên thọ nạn” của nhà thơ La Quốc Tiến.

 

Có một lão già mù ăn xin ngân nga các đoạn

                                                Lục Vân Tiên

trên những chuyến phà ngang Rạch Miễu

Có một gã thanh niên say rượu

                  ghếch chân lên thành lan can đứng tiểu

………..

Lão già mù vẫn khàn giọng ngân nga

Gã thanh niên say rượu vẫn càm ràm một điều gì như là oan ức

Cô gái vẫn tiếp tục soi gương

như cố khám phá một điều gì đang lẫn trốn trên khuôn mặt

Đứa bé gái đã ngủ

chiếc chong chóng vẫn xoay

Bà già thọt chân vẫn ngồi than thở

Gã đàn ông vẫn làu bàu với kẹo cao su

Những con gà tơ đã ngủ gà ngủ gật

Sau khi nuốt xong bữa tiệc chiêu đãi cuối cùng

Không có ai

cam đoan là không có ai hay tin

            “Lục Vân Tiên đang thọ nạn giữa rừng”

 

Thơ viết dung dị nhưng ngồn ngộn hiện thực, chồng chất các tầng lớp thông điệp, hiện đang là một thế mạnh của thơ đồng bằng châu thổ. Nhiều khi, mới thoạt nhìn, mới đọc, ta tưởng đó là sự ghi chép. Nhưng càng đọc, càng nghiền ngẫm, ta càng thấy óng lên những ý tưởng mới và đẹp. Nhà thơ trẻ Trần Thế Vinh ở An Giang cũng là một cây bút khẳng định được thế mạnh ấy.

 

NHẬT KÝ MÙA LŨ ĐỒNG BẰNG – 1991

 

Trần Thế Vinh

 

1.

Mồng năm tháng năm…

Con nước sông Tiền đỏ ngàu chảy xiết

Trông lên Thất Sơn

Mây giăng như cánh chim. Biền biệt

Tín hiệu bồn chồn trên sóng mắt hạ lưu!

……..

 

Rác rưỡi bên lề đường

Theo con nước lộng hành trôi.

………..

Cầm ngọn gió mơn man. Se đông

Mới nôn nao nhớ

Mùi hương rạ đồng vàng chín vụ

 

                             1991 – 1993

 

Một thế mạnh của thơ đồng bằng là phản ánh khá sắc nét cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, từ góc độ nhìn của người trong cuộc, ngay trên mảnh đất phương Nam đầy nắng và gió. Theo tôi, đây vẫn là một đề tài rất lớn mà chúng ta cần phải tiếp tục khai thác, tiếp tục nâng cao lên, để nhân loại hiểu hơn về một thời đại của những người anh hùng, thời đại của những đau thương tột đỉnh mà dân tộc ta đã gánh chịu, đã vượt qua. Các nhà thơ Nguyễn Bá, Lê Chí là những nhà thơ tiêu biểu. Chính ngọn lửa của cuộc chiến tranh thần thánh đã thổi sức nóng vào thơ của họ, làm nên máu thịt và linh hồn thơ của họ. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng, nếu biết khai thác đề tài này, chúng ta sẽ còn gặt hái rất nhiều bội thu cho thơ. Xin dẫn ra đây bài “Có mười sáu cuộc chiến tranh” của nhà thơ Nguyễn Trọng Tín.

 

CÓ MƯỜI SÁU CUỘC CHIẾN TRANH

 

Nguyễn Trọng Tín

 

làng xóm đã xanh một màu cây trái

trẻ con lớn lên thành những đôi trai gái

dấu vết chiến tranh ngỡ chỉ còn sót lại

những hố bom – những bàu sen đưa hương

 

……..

và thật tình cờ cho tôi nhận ra

xóm tôi vẻn vẹn hai mươi sáu ngôi nhà

có mười sáu người đàn bà

sau chiến tranh chồng không về nữa

có mười sáu ngọn gió giọt mưa đêm đêm đi gõ cửa

trong đó có nhà má tôi

có mười sáu cuộc chiến tranh trong xóm còn âm ỉ

dù đã mười năm giặc giã qua rồi.

 

                         Cà Mau, 1985

 

Gần đây, thơ đồng bằng châu thổ có một dấu hiệu vui, là càng ngày càng xuất hiện những cá tính sáng tạo khá độc đáo, mà hầu hết các tác giả đều tự khẳng định được phong cách thơ của mình. Chẳng hạn như tập “Ký ức” của Trịnh Bửu Hoài, xuất bản tháng 11 năm 2002.

 

ĐƯA BẠN VỀ BẮC ĐUÔNG

 

Trịnh Bửu Hoài

         -nhớ Phạm Hữu Quang

 

Bạn trở về. Về với Bắc Đuông

Nơi dòng sông chảy qua lời ru của mẹ

Nơi câu thơ xanh màu lá trẻ

Ngọn đèn dầu soi sáng những trang văn

Quyển vở vàng thơm mùi rạ đồng bằng

Tiếng dế gáy theo vào giấc ngủ

Cha mất sớm mẹ lìa quê lam lũ

Chị theo chồng thui thủi bóng ven sông

 

…….

 

Bạn đã về. Mãi mãi Bắc Đuông

Dòng sông xưa hát lời ru của mẹ

Những câu thơ bây giờ lặng lẽ

Kết thành sao soi một kiếp người

Dừng bước giang hồ. Bạn đã thảnh thơi

Chuyện áo cơm cũng thành sương khói

Cồn Nguyễn Du gió mùa vẫn thổi

Không còn ai bên máy chữ gọi thơ về.

 

Thơ đồng bằng không thể thiếu hơi hướng đồng bằng, tức là không thể không đề cập đến những đặc trưng cá tính người đồng bằng châu thổ, không gian đồng bằng châu thổ, thời gian đồng bằng châu thổ… tức là tất cả những gì đã làm nên tiến trình phát triển lịch sử của đồng bằng châu thổ- kể cả tiến trình phát triển và sức sống mảnh liệt của ngôn ngữ đồng bằng châu thổ. Bản thân tôi rất trân trọng những bài thơ như vậy.

 

 

MỘT GÓC TÂN CHÂU

 

Hồ Thanh Điền

 

Lâu lắm mới về thăm Tân Châu

Đất lở thành sông nhà em đâu

Nước chảy một dòng đua sắc đỏ

Phù sa ghé lại bãi bồi nào

 

.......... 

Một thời thơ bé đã xa dần

Một phần ký ức hóa phù vân

Đất lở lộ lở phố chợ lở

Người về hóa tượng sóng chôn chân

 

Ta không thể lấy thơ của người này ra so sánh với thơ của người khác, cũng như không thể lấy thơ của miền văn hóa này so với miền văn hóa khác; bởi vì, “mọi sự so sánh đều khập khiểng”. Nhưng điều đáng mừng, là trong trong tiến trình phát triển của mình, thơ đồng bằng châu thổ có sự vận động đi lên rất mạnh, nhưng rất ít tác giả bị ảnh hưởng bởi những nền văn hóa xa lạ. Tuy nhiên, không hề vì điều đó mà thơ đồng bằng không có những cách tân đáng kể, để vươn tới những tầm vóc thơ hiện đại.

Bản thân tôi rất thích thơ của Vi Thùy Linh. Mạnh mẽ, bạo liệt trong ý nghĩ. Thơ Linh đọc nghe như cháy lên bùng bùng những suy tưởng dữ dội không thể cầm lại được.

 

CHÂN DUNG

 

Vi Thùy Linh

 

 

* Chỉ cô độc mới làm bật tác phẩm – ai đó nói – không phải tôi

Để sống trong sa mạc của sự cô độc, thiếu phụ ngủ với cô độc. Giấc ngủ – không gì khác –

Là huyễn hoặc khi con người đánh thuốc mê vào cơn cùng quẫn.

 

* Bình minh gióng lên

trống ngực

vượt những chóp núi bằng ngọn bút – không thể khác –

Những câu thơ dồn nhau không kịp ý nghĩ

Bật máu

Bóng tối, là cô gái – mang thành phố đi lang thang – cho đêm ngắn lại

Trở về – thiếu phụ. Nước lạnh biến thiếu phụ thành thiếu nữ. Thiếu nữ chạy trốn – Tới khi tay không giữ nổi bút.

 

 

*Khỏa thân trong chăn

Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần anh gối lên đùi

Mình ôm lấy anh ôm mình

Biết sự bình yên của mặt đất

 

Trong chăn

Những câu nói mê

Tỏa hơi nước

 

Đầu rỗng

Tôi tập chết

Để – biết – mình – đang – sống.

 

* Nói gì cũng hàm ngôn

Mắt hàm ngôn những điều ngoài tiếng nói

Không phải ai cũng dám yêu người như thế!

 

......... 

* Một đêm căng tròn muốn vỡ

Phát điên nhớ cái hôn phát điên…

Tiếng nói mê(từ những – ngày – thủy – triều – dâng)

kéo ngã mấy sợi tóc bạc.

 

Ngôi nhà chôn sức nặng

Căn phòng trên cao, còn khỏe

Thiếu phụ

Hai mươi tuổi.

 

              8.3.2000

 

Trái với cá tính sáng tạo của Vi Thùy Linh, thơ của nhà thơ Thu Nguyệt, cũng rất mạnh mẽ về cá tính sáng tạo văn bản, nhưng dịu dàng, đằm thắm, trầm tỉnh và sâu lắng. Thơ của chị như những viên ngọc qúy ẩn sâu dưới biển thẳm. Đem soi vào nắng trời sẽ thấy lóng lánh- lóng lánh bật sáng tầm vóc tư duy mạnh đến không thể ngờ được.

 

NÓI VỚI BIỂN

 

Thu Nguyệt

 

Biển lại gần ta nói biển nghe

Sóng dữ dội rồi cũng tan bờ cát

Sâu cạn đục trong vẫy vùng phiêu bạt

Biển rộng đến đâu cũng không thoát nổi bờ.

 

..........

Biển lại gần đây để cùng ta vui

Cùng ta buồn, cùng ta suy gẫm

Ta nói nhỏ một điều thật lắm:

Ta có thể rời khỏi trái đất này…

                              còn biển thì không!

 

Bên cạnh những nhà thơ đã được khẳng định, gần đây, lực lượng sáng tác thơ của đồng bằng sông Cửu Long chúng ta, càng ngày càng được bổ sung thêm nhiều cây bút trẻ rất có năng lực, rất có triển vọng. Đó là vốn qúy của sự kế thừa trong dòng chảy thời gian của thơ đồng bằng. Thiết nghĩ, chúng ta cần phải trân trọng họ, nâng niu, vun xới cho họ. Bởi vì xét trên thực tế, họ đã gặt hái thật sự nhiều tác phẩm rất có giá trị về phong cách thơ mới- thơ đồng bằng, thơ trí tuệ của tầm vóc tư duy mới.

 

CHỊ VẮNG NHÀ

 

Văn Triều- Trà Vinh

(Tặng chị tôi)

 

Chị đi

Chợt vắng hương bồ kết

Nép bóng hiên nhà lá trúc rơi

Lối nhỏ hanh hao chiều nắng đọng

Đầu rào xanh ngắt dậu mồng tơi.

 

..........

Chị đi

Bờ sông mênh mông con nước lớn

Tiếng bìm bịp trôi lênh đênh

Người ấy chợt chiều nay sang hỏi

Đò qua. Sông vắng. Nắng mênh mông…

 

                                     1993

 

TRÒ CHƠI ?

 

Nguyễn Xuân Quang- Vĩnh Long

 

Có người chơi chữ thành danh

Còn ta sắp chữ thành anh thợ quèn

Thị trường chữ nghĩa bon chen

Nên sang cũng đấy nên hèn cũng đây

 

…….

Có người chơi chữ nên sang

Còn ta sắp chữ thẳng hàng mà đi !

 

Khi tôi gặp Mặc Tuyền ở Long An, anh nói với tôi: “Đồng bằng sông Cửu Long đang thời bội thu của các tác giả thơ trẻ. Lực lượng này khá hùng hậu, tư duy nhanh nhạy, có chiều sâu ý tưởng, năng lực phản ánh nhanh. Họ đang là niềm tự hào của thơ đồng bằng châu thổ”. Nghe vậy, tôi hỏi: “So với các tác giả trẻ ở phía Bắc, anh thấy thế nào?”. Mặc Tuyền nhìn tôi và cười: “Tôi thích cá tính phương Nam. Nhìn chung là dung dị, hồn hậu; nhưng cũng đầy bản lĩnh”. Rồi anh khề khà đọc hai câu thơ của một nhà thơ viết từ lúc còn trẻ, nay đã qúa cố.

 

Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt

Chợt khói cơm sôi đã nhớ nhà

 

Nghe hai câu thơ vừa cũ vừa mới ấy, tôi biết rằng nó đã sống rất lâu rồi trong tâm khảm của hết thảy bạn bè ở Nam Bộ; bởi vì nó rất thật mà lại đầy khẩu khí. Máu giang hồ dường như thấm đẫm trong tính cách của khá nhiều tác giả phương Nam, như Phạm Thường Gia, như Tô Nhược Châu, như Lê Bá Diệp, như Vĩnh An, như Nguyễn Hữu Tân, như Nguyễn Như Nhiên…

 

Vắt cạn máu đời lên nghiên mực

Giận mình không viết được câu thơ

Quẩn quanh giữa trận đồ hư thực

Trang giấy buồn hiu cứ đợi chờ

 

              (“Không đề” – Tô Nhược Châu)

 

Đó chính là một phần hình thành nên tính cách của thơ đồng bằng: Thật mà dữ dội và mãnh liệt đến tận cùng cảm xúc. Đó là cảm xúc chín từ trong cuộc sống phóng khoáng, bao dung, nhân hậu, trọng nghĩa khinh tài; sẵn sàng đối mặt, sẵn sàng hứng chịu, sẵn sàng ăn thua đủ; nhưng cũng sẵn sàng bỏ qua tất cả để khẳng định giá trị con Người viết hoa của con người, trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào. Điều đó khiến tôi nhớ lại bài “Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại” của nhà thơ Đinh Thị Thu Vân.

 

 

rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại

bạn bè ơi khi ấy có còn nhau

cơn lốc đời chưa đẩy bạn về đâu

ta ngoái lại nhìn nhau, e mất dấu

 

………

trái tim héo, nụ cười xưa dẫu héo

chỉ xin đừng tàn lụi chút niềm tin

dẫu mong manh vụn vỡ chẳng nguyên lành

xin hãy có một ngày nhen nhúm lại.

 

Khi cùng La Quốc Tiến, Đậu Viết Hương và vài người bạn tri tửu ở Tiền Giang, xuất bản mồm về thơ của bạn bè ở đồng bằng châu thổ, La Quốc Tiến chợt nói một cách ngẫu nhiên: “Lóng rày cánh nửa thế giới của đồng bằng đang lũ lượt lên ngôi trong văn, trong thơ; họ đem lại cho văn thơ đồng bằng một vẻ đẹp vừa hồn nhiên, tươi trẻ, vừa mặn mòi như nắng gió phương Nam”. Nếu điểm danh theo an pha bê, đồng bằng châu thổ qủa là đang có rất nhiều nhà thơ nữ đã thành danh trên nhiều lĩnh vực: Trần Thị Hoàng Anh Trịnh Thị Thanh Bình, Huỳnh Thị Đằng, Nguyễn Lập Em, Lê Giang, Nguyễn Thị Trà Giang, Song Hảo, Thái Hồng, Nguyễn Thị Nguyệt Hồng, Trầm Hương, Châu Thị Cẩm Liên, Võ Kim Liên, Lê Thanh My, Thu Nguyệt, Hải Triều, Ngọc Phượng, Phạm Thị Qúy, Văn Lệ Trinh, Dương Thị Thu Vân, Đinh Thị Thu Vân… Danh sách các nhà thơ nữ này, tới hôm nay đã kéo ra rất dài, nếu chúng ta chịu khó ngồi ghi chép tên của họ trên các tuần báo, nhật báo, tạp chí và các tuyển tập, các giải thưởng, cũng như trên các phương tiện thông tin khác.

Để kết thúc, tôi xin dẫn ra mấy câu thơ đầy chất Nam Bộ của một nhà thơ nữ đã thành danh ở đồng bằng.

 

Con mương nhỏ mỗi chiều tôi nghịch nước

Có chú lìm kìm cắn khúc ca dao

Mười năm qua không đắp, không đào

Lá tre rụng, con mương sâu thành cạn.

Vịt có chết chìm đâu? – Tôi buồn tôi hát…

Sao cá lìm kìm cắn mãi trái tim tôi…

 

(“Hát về con mương nhỏ” – Thu Nguyệt)

 

 

 Vĩnh Long, ngày 4 tháng 8 năm 2003

Hồ Tĩnh Tâm
Số lần đọc: 3446
Ngày đăng: 26.05.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Một chút tình si trong thơ Ma Trường Nguyên - Nguyễn Đức Thiện
Đáu đáu một cái nhìn : Đọc Lập Thiền của Nhuỵ Nguyên - Nhà xuất bản Thuận Hoá tháng 4-2006. - Nguyễn Nguyên An
Đồng quê ngân khúc hát :Đọc tập thơ Khúc sơn ca của Mai Thìn, NXB Hội Nhà Văn, 5-2005. - Lê Hoài Lương
Đến với Lục bát nhớ thương của Huỳnh Duy Lộc - Nguyễn Nguyên An
Những cây bút thơ Tiền Giang - một cõi đi về - Võ Phúc Châu
Da diết hương quê :Đọc tập thơ NHỮNG CỌNG RAU TẬP TÀNG của CẢNH TRÀ-NXB HỘI NHÀ VĂN 2006 - Nguyễn Đức Thiện
Đọc tập thơ XUỐNG NÚI- Hồ Chí Bửu- Nxb Văn nghệ 2005 : Từ trong tĩnh lặng.. - Nguyễn Đức Thiện
Sóng sánh mẹ và anh,một giọng thơ cảm xúc - Nguyễn Đức Thiện
Với XUÂN SÁCH và... - Phạm Lưu Vũ
Thu Nguyệt với triết lý “CẢ ĐỜI LÀM MỘT CUỘC RƠI KHÔNG THÀNH” - Phạm Lưu Vũ
Cùng một tác giả
Ngũ long công chúa (truyện ngắn)
Nàng (thơ)
Thầy Thi (truyện ngắn)
Có một mùa mưa (truyện ngắn)
Bến thần Kê (truyện ngắn)
Cu Đồ cháy mấn (truyện ngắn)
Chết giữa dòng sông (truyện ngắn)
Đêm Noen (truyện ngắn)
Vi rút rừng xuân (truyện ngắn)
Huynh đệ thần kê (truyện ngắn)
Gà đẻ gà cục tác (truyện ngắn)
Công an xã (truyện ngắn)
Hoành (truyện ngắn)
Bập bùng giai điệu (truyện ngắn)
Dòng sông tuổi thơ (truyện ngắn)
Cõi hoang thăm thẳm (truyện ngắn)
Mùa xuân dìu dịu (truyện ngắn)
Chuyện ở Làng Gao (truyện ngắn)
Chú Bảy (truyện ngắn)
Dấu ấn cuộc đời (truyện ngắn)
Một thời (truyện ngắn)
Thằng bé chết (truyện ngắn)
Tư Sẹo (truyện ngắn)
Nhỡ xe (truyện ngắn)
Con cà con kê (tạp văn)
Xóm phố (truyện ngắn)
Vòng quay của ngựa (truyện ngắn)
Con ngựa (truyện ngắn)
Giai điệu (truyện ngắn)
Bên hồ sen trắng (truyện ngắn)
Út Hường (truyện ngắn)
Bông điên điển (truyện ngắn)
Anh Dần (truyện ngắn)
Bạn cùng làng (truyện ngắn)