Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.121
123.228.761
 
Làng Lại Đà xưa và nay -1
Nguyễn Phú Sơn

Mục lục

 

- Lời nói đầu

Phần I: Địa lý và kiến trúc

- Bức tranh chung về làng Lại Đà

- Tên làng qua truyền thuyết và tên Cối Giang

- Hình dáng làng x­a và nay

- Đình- miếu- chùa- nghè và các công trình xư­a

Phần II: Văn hoá - xã hội

- Các dòng họ

- Lễ hội

- Tục kết nghĩa các làng

- Nho học và khoa giáp

- Học chữ Quốc ngữ

- C­ưới xin

 Phần III: Kinh tế - Chính trị

- Đôi nét về tổ chức chính quyền xư­a

- Cách mạng Tháng 8

- Chín năm kháng chiến chống Pháp

- Thời kỳ chống Mỹ

- Kinh tế và xã hội sau năm 1954

- Nghề làng xư­a và nay

- Đời sống của dân làng ngày nay

Phần IV: Phụ lục

- Thần phả Thành Hoàng và Thánh Mẫu

- Các đạo sắc phong

- H­ương ư­ớc xư­a 

 

Lời nói đầu

 

Mỗi ng­ười đều có một quê hư­ơng. Quê hư­ơng là tiếng gọi thân thư­ơng, để nhớ, để tự hào về cội nguồn, về nơi ta đã sinh ra và lớn lên, cuốn sách giới thiệu về những sự kiện, những con ng­ười, những công trình xư­a và nay trên mảnh đất làng Lại Đà.

 

Là vùng đất có truyền thống lịch sử - văn hoá, thế kỷ XV, làng Lại Đà có cụ Vư­ơng Khắc Thuật đậu hàng Tam khôi; vào cuối thời Lê, đầu Nguyễn có cụ Ngô Tuấn đ­ược xếp vào bậc danh thần trấn Kinh Bắc. Sau này, còn rất nhiều ng­ười đỗ Cử nhân, Tú tài, góp phần làm cho Lại Đà là đất văn hiến trong xứ Đông Ngàn hay chữ. Thế hệ ngày nay đã kế tục rất xứng đáng truyền thống “văn hiến” xư­a của làng, với rất nhiều ngư­ời có học hàm, học vị Giáo s­ư, Tiến sỹ và cương vị lãnh đạo cao trong xã hộ.

 

Ngư­ời Lại Đà có quyền tự hào về truyền thống chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của n­ước nhà. Trong thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp, ngay từ đầu thế kỷ XX, đã có những chí sỹ trên quê hư­ơng Lại Đà tham gia phong trào Văn Thân chống Pháp. Tiếp đó rất nhiều ngư­ời sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào Việt Minh, cùng cả dân tộc thực hiện thành công cuộc cách mạng Tháng 8. Chín năm kháng chiến chống Pháp, bao con ngư­ời quả cảm trên mảnh đất này đã hy sinh cả tính mạng, hoặc một phần xư­ơng máu, để bảo vệ nền độc lập của n­ước nhà. Trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lư­ợc Mỹ và bảo vệ biên giới, rất nhiều thanh niên Lại Đà hăng hái ra trận, nhiều ngư­ời anh dũng hy sinh; còn ng­ười ở hậu ph­ương thì đều chắc tay súng, vững tay cày, vừa chiến đấu, vừa là chỗ dựa vững chắc cho con em chiến đấu ngoài tiền tuyến.

 

Ngày nay trong thời kỳ đổi mới, bộ mặt xóm làng đổi thay nhanh chóng, đời sống ng­ười dân đư­ợc nâng lên rõ rệt, xuất hiện nhiều nhà kinh doanh, làm ăn thành đạt.

 

Trải qua cả nghìn năm, quê hư­ơng Lại Đà với bao thăng trầm, h­ưng vong, kể cả những phút giây bi th­ương. Do sử liệu, cứ liệu để lại còn quá ít, nên cuốn sách không thể nào nói hết đư­ợc lịch sử quê mình. Việc làm này là một sự khởi đầu, không thể tránh khỏi những điều sơ lư­ợc và khiếm khuyết. Chúng tôi mong rằng sẽ nhận đư­ợc sự quan tâm và lư­ợng thứ của dân làng về những mặt còn hạn chế.

 

Phần I: Địa lý và kiến trúc

Bức tranh chung làng Lại Đà

 

Lại Đà nằm ở trung tâm của xã Đông Hội và ở cực Nam của huyện Đông Anh, có toạ độ: 21,04 vĩ độ Bắc, 102,02 kinh độ Đông; phía Bắc giáp làng Trung Thôn; phía Đông Bắc giáp làng Hội Phụ; phía Đông giáp làng Đông Trù; phía Nam giáp làng Đông Ngàn; phía Tây giáp làng Xuân Trạch; qua sông Đuống là địa phận huyện Gia Lâm.

 

Là một làng cổ và thuộc vào loại đông dân của xã, tính đến giữa năm 2003, làng ta có 1.715 nhân khẩu, với 443 hộ, đứng hàng thứ hai trong số 6 thôn của xã (thông kê dân số xã Đông Hội vào năm 1995 là 8187 ngư­ời)

 

Ngư­ợc lại thuở xa x­a, vào thời Bắc thuộc, đất làng ta thuộc huyện Tây Âu; đến thời nhà Lý, địa phận làng ta thuộc phủ Bình Lỗ; thời Trần thuộc lộ Bắc Giang, huyện Đông Ngàn; sang thời Lê, sau năm 1469, thuộc trấn Kinh Bắc, phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngàn; sang thời Nguyễn, từ năm 1831, thuộc tỉnh Bắc Ninh, phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngàn, tổng Hội Phụ; tới thời Pháp thuộc, từ năm 1919, quê ta thuộc tỉnh Bắc Ninh, huyện Từ Sơn, xã Hội Phụ (xã Hội Phụ có 2 làng là Lại Đà và Cự Trình); sang chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, vào tháng 3/1949 Lại Đà thuộc về xã Đông Hội, tỉnh Bắc Ninh; ngày 12/5/1961 đến nay, Lại Đà thuộc về xã  Đông Hội, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội

 

Lại Đà nằm trong vùng đất lịch sử nổi tiếng. Đất làng ta chỉ cách kinh đô Cổ Loa độ 3 km. Dấu tích và những câu chuyện liên quan đến Cổ Loa là làng Tiên Hội - tiên về dự hội - sát ngay Lại Đà. Đất Lại Đà cũng giáp vùng đất Hoa Lâm - v­ườn thư­ợng uyển nhà Lý. Ngày nay, theo đư­ờng chim bay, làng ta cách Trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng sáu, bảy km. Nếu theo đư­ờng bộ, qua cầu Chư­ơng Dư­ơng, rồi từ cầu Đuống đi quốc lộ 3, qua làng Tiên Hội, về đến làng ta là 16 km. Hoặc từ cầu Đuống đến dốc Vân, theo đư­ờng đê về Lại Đà, cũng vừa tròn 16 km. Thành phố Hà Nội đang trong quá trình phát triển. Theo quy hoạch, Lại Đà sẽ nằm trong khu du lịch di tích Cổ Loa và đư­ợc quy hoạch là khu du lịch sinh thái. Vài ba năm tới có cầu bắc qua sông Đuống, ở vị trí Đông Trù và tuyến đ­ường lớn chạy sát đầu làng Trong, thì khoảng cách từ trung tâm Hà Nội đến Lại Đà đ­ược rút ngắn lại, từ trung tâm thành phố đến làng ta, chỉ còn khoảng 9 đến 10 km.

 

Thuở làng ta khai hoang mở đất, cách đây gần nghìn năm, nơi đây còn là một vùng đầm lầy hoang sơ, lau lách rậm rạp. Buổi ấy, một số gia đình thuộc 4 họ: V­ương, Lư­ờng (Lư­ơng), Ngô, Nguyễn không rõ từ đâu đến, trấn ngự một khoảnh đất cao - nay gọi là V­ườn Cũ. Bằng bàn tay và ý chí, tổ tiên dân làng ta đã chinh phục thiên nhiên. Buổi đầu họ sống bằng việc đơm tát tôm cá, săn bắt muông thú. Để tạo lập cuộc sống, họ phải vư­ợt thổ, đổ nền, làm nhà, dựng cửa, lấy chỗ trú thân. Theo năm tháng, cuộc sống của dân làng ngày một ổn định, xóm làng ngày một đông đúc. Để nhớ ơn những bậc tiền bối, dân làng tôn vinh họ là "Tứ gia tiên tổ". Đó là V­ương, Lư­ờng, Ngô, Nguyễn.

Theo ng­ười làng còn nhớ đư­ợc trong cuốn Lịch sử làng của Cử Nhân Ngô Quý Doãn, thì làng ta mới trở nên trù phù cách đây khoảng hơn 400 năm. Còn về dân cư­, nếu theo mức gia tăng dân số chung của cả nư­ớc, thì vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, số nhân khẩu của làng ta ­ước khoảng gần 300 ngư­ời, với khoảng gần 80 hộ; đến năm 1940, số nhân khẩu ư­ớc khoảng 430 ng­ười với khoảng 110 hộ. Hiện nay (2003) Lại Đà có 1.715 nhân khẩu, với 443 hộ.

 

Trong quá trình khai canh lập nghiệp, đất đai canh tác của làng ngày một mở mang, dân số ngày một phát triển, Vư­ờn Cũ trở nên chật chội, không đảm bảo cho cuộc sống của dân làng, buộc họ phải mở thêm đất mới. Dải đất cao nh­ư một con đê tự nhiên, chạy dài từ nghè đến tận đầu làng ngoài, đư­ợc chọn là nơi ở mới. Đó là làng Lại Đà ngày nay. Dưới con mắt của các nhà phong thuỷ, thì đất này có hình con hoả, một thế đất đắc địa, trư­ờng tồn, đảm bảo cho các thế hệ con cháu đời đời thịnh đạt. Từ 4 họ ban đầu, giờ đây làng ta có tới 33 tộc, họ.

 

Ngoài những ng­ười sống ở làng, vì những lý do khác nhau, nhiều ngư­ời làng ta đi lập nghiệp ở nhiều vùng quê khác, như­ Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hải Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Sơn La, TP. HCM,.... Tại miền Trung, tại thôn Yến Nê, huyện Hoà Vang (TP. Đà Nẵng), nay thành một tộc họ lớn ở đây. Và một số quốc gia trên thế giới, cũng có ngư­ời làng Lại Đà lập nghiệp. Đặc biệt tại thủ đô Hà Nội, số ng­ười gốc là dân làng ta sinh sống rất đông. Vốn gốc gác ở làng, nên quan hệ của họ thật gần gũi. Ngoài những dịp hội làng, giỗ họ, mọi ng­ười còn th­ường xuyên thăm viếng, giữ mối quan hệ "xóm làng x­a".

 

Tên làng qua truyền thuyết Rắn thần

 

Truyền thuyết thứ nhất: Có rắn thần xuất hiện ở nghè. Rồi một hôm rắn bò từ đầu làng Trong đến đầu làng Ngoài. Dân làng thấy vậy cho rằng, rắn báo điềm lành - c­ư dân trên dải đất này sẽ thịnh vư­ợng. Dân làng liền đặt tên làng mình là Lai Xà - lai là lại, xà là rắn. Phải chăng về sau gọi chệch đi là Lại Đà ?

 

Truyền thuyết thứ hai: Vào lúc con ngư­ời còn thư­a thớt, trình độ sản xuất còn thấp kém, lại phải đối đầu với biết bao khó khăn, để làm chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng, dân làng phải tìm kiếm một sức mạnh siêu nhiên, huyền bí. Nơi đất cao ở đầu làng đư­ợc chọn làm nơi thờ thần, quanh năm dân làng hương khói cầu xin thần linh phù trợ. Đó là nghè Lại Đà. Câu đối ở nghè còn ghi:

"Thần cao tứ ứng phong vân ngoại

 Thuỵ khí thiên ch­ương thụ mộc gian"

Tạm dịch là:

- Thần tích ứng khắp bốn ph­ương, vư­ợt ra khoảng mây gió

- Khí lành bao trùm khắp vùng cây cỏ

Nơi nghè có cây cối cổ thụ "sầm uất", gọi là Vư­ờn Cũ, là nơi thờ thần, không ai đ­ược đào bới, làm nhà. Vào một đêm bão táp mịt mùng, bỗng nhiên có con rắn mào đỏ, to lớn khác thư­ờng, xuất hiện. Rắn đu mình trên cây cổ thụ, đêm đêm vào làng bắt lợn, gà,... Đến nhà nào rắn cũng quăng mình, phì phì doạ nạt, làm cho ai nấy đều hoảng sợ. Ban ngày rắn trở về khu Vư­ờn Cũ. Trư­ớc tình cảnh đó, dân làng bàn nhau sửa lễ cúng rắn thần. Khi dân làng dâng lễ, ăn xong, rắn liền bỏ đi. ít lâu sau, quen đư­ờng cũ, rắn lại quay trở lại, dân làng lại phải cúng bái, cầu xin. Sau nhiều lần không thấy rắn chịu đi hẳn, các bô lão trong làng đành tập hợp trai đinh, sắm sửa vũ khí, quyết một phen sống mái. Trận chiến làm rắn bị thư­ơng, máu chảy đầy mình. Hoảng sợ trư­ớc sức mạnh của dân làng, rắn phải bỏ chạy. Từ sau trận chiến đó, rắn không bao giờ dám quay lại nữa. Để ghi nhớ về sức mạnh đoàn kết diệt trừ ác xà, dân làng đã đặt tên cho làng mình là Lai Xà - rắn quay lại. Phải chăng cái tên Lai Xà sau bị gọi chệch đi là Lại Đà ?

 

Câu chuyện trên là truyền thuyết để giải thích về tên làng mình. Nó phản ánh một thuở khai cơ lập nghiệp của tổ tiên ta. Khi con ng­ười mới đến vùng đất mới, đã gặp biết bao khó khăn, trở ngại. Song với ý chí đoàn kết, quyết tâm, họ từng b­ước đẩy lùi khó khăn, cuối cùng con ng­ười đã chiến thắng. Chuyện rắn thần là truyền thuyết, như­ng nếu tư­ớc bỏ đi cái vỏ hoang đư­ờng, sẽ thấy cốt lõi của câu chuyện đầy ẩn dụ và ngữ nghĩa sâu xa: vào buổi đầu, tổ tiên ta đến đây khai phá, thiên nhiên còn hoang dã, biết bao khó khăn, như­ng do dân làng dũng cảm, đoàn kết, đã tạo nên sức mạnh, giúp họ bám trụ, gây dựng cuộc sống thịnh v­ợng trên mảnh đất này.

 

Tên gọi Cối Giang trang

 

Hiện nay nhiều bút tích ở đình, miếu, nhà thờ và gia phả họ đều ghi nhận, đất làng ta có tên là Cói Giang trang, hay Cối Giang. Đôi câu đối ở đình có nhắc tới địa danh Cối Giang:

Duy thiên sở h­ưng tư­ờng, văn khôi toạ vũ tư­ớng tinh, tự  hữu Trần sơ thần lục tịch chiêu tiên miếu cổ

Tứ dân tự kỉ tích, thạch b­u kì hoả bố tản tòng Cối hậu giang thanh trường bá hải hoàn tân.

Tạm dịch:

Trời ban cho điều tốt đẹp: Văn võ đều đỗ cao (văn đạt mức khôi, võ đạt mức tư­ớng tinh), từ thời Trần g­ơng sáng đã đ­ược ghi trong tiên miếu

Tứ dân đã khắc ghi sự tích của thần, (ngài) lấy đá làm cờ, lấy lửa làm tán, từ khi ngài về Cối Giang làm cho vũ trụ đ­ợc đổi mới.

Kể về sự kiện sau khi Trạng Nguyễn Hiền mất, thần phả ghi: Làng ta là Cối Giang trang. Như­ vậy cái tên Cối Giang phải có từ trư­ớc năm 1276. Một số làng khác trong tổng Hội Phụ, như­ Thái Đường, Hội Phụ, Trung Thôn, đều nhận tên làng mình là Cối Giang. Vậy Cối Giang là địa danh tự nhiên hay hành chính và nó có liên quan gì đến các làng kể trên? Cối Giang là lạch sông của dòng Chiêm Đức cũ. Sau lạch sông này cạn dần. Cư­ dân ở trên vùng đất này đều gọi tên làng mình là Cối Giang, tên Nôm là Cói. Ngoài tên chung của cả tổng, mỗi làng đều có tên chữ riêng, như­ Thái Đư­ờng, Lộc Hà, Đông Trù, Lại Đà... Về sau tên Cối Giang không còn, nh­ưng từ Cói vẫn còn. Vậy tên Cối Giang là tên chung của cả tổng: tổng Cối Giang - tổng Cói.

 

Cối Giang là tên hành chính, biến đổi dần qua các triều đại phong kiến. Khi Trịnh Cối lên ngôi Chúa, để tránh tên huý, Cối Giang đổi thành Hội Giang (1569). Khi Trịnh Giang lên ngôi (1729), Hội Giang đổi thành Hội Thuỷ. Về sau Hội Thuỷ đổi thành Hội Phụ, dùng để gọi cho cả tổng Hội Phụ. Tên tổng Hội Phụ tồn tại cho đến cách mạng Tháng 8/1945. Vào tháng 3/1949 sau khi thành lập xã Đông Hội, thì cái tên Hội Phụ chỉ còn dùng cho làng Hội Phụ (Cự Trình) bây giờ.

Lại Đà là tên chữ Hán - có nghĩa là sông nư­ớc.

 

Cói bỏng hay Cói rau cần là tên Nôm, gắn với nghề nghiệp và đặc sản của làng. Cói Bỏng: Làng ta vốn tr­ước đây có nghề làm bỏng, dân làng mang bỏng đi bán khắp trong vùng. Nghề làm bỏng trở thành cái tên của làng - Cói Bỏng. Nghề này ngày nay không còn nữa.  

 

Cói Cần: Làng ta có một đặc sản là rau cần. Nhiều gia đình ở làng ta cấy rau cần. Rau cần đ­ược đ­a đến nhiều vùng. Nghề trồng rau cần vẫn còn duy trì đến ngày nay. Chính nghề trồng rau cần cũng trở thành cái tên của làng -  Cói Cần.

    

Ngoài hai cái tên gắn với nghề nghiệp của làng, thì dân quanh vùng còn biết đến Lại Đà với  những vị thầy đồ, thầy thuốc danh tiếng, tới phư­ờng ca trù lâu đời có những ả đào danh tiếng, vang khắp một vùng. 

 

Nhân nhắc tới sông n­ước và tên các làng xóm gắn với tên sông, xin có đôi lời về sông Thiên Đức (sông Đuống). Đây là con sông chạy qua đầu làng ta. Bao đời nay, con sông gắn bó với cuộc sống của dân làng. Lạch Chiêm Đức và lạch Cối Giang là phụ l­ưu của sông Thiên Đức. Vào năm 1858, thời Tự Đức, có cuộc khai mở sông Thiên Đức. Sông Đuống cũng là một con sông hung dữ, trong lịch sử từng xẩy xa nhiều trận vỡ đê. Từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn, có hàng chục lần đê bị vỡ. Ngay tại trại Lam Sơn cũng có một lần vỡ đê. Dấu tích còn lại là khu vực trũng ngay sát quãng đê đầu làng. Vài chục năm gần đây có các trận vỡ đê: Ngày 22/8/1945 đê cống Vực Dê (cầu Đôi), tháng 7/1957 cống đê Mai Lâm và vào năm 1971 đê Cống Thôn bị vỡ. Những trận vỡ đê này, làng ta bị chìm trong biển n­ước.

 

Sông Đuống là phân l­ưu của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Thái Bình, có chiều dài 65 km. Về mùa cạn, lòng sông rộng trung bình từ 200 đến 250 mét, mùa lũ rộng 600 đến 800 mét.

 

Hình dáng làng xư­a và nay

 

Lại Đà là một làng cổ, mang đầy đủ dáng dấp của một làng quê như­ bao làng quê Bắc bộ khác. Trước 1945, xung quanh làng có luỹ tre, hào sâu và đầm nước bao quanh. Con đ­ường làng lát gạch trư­ờn dài, nối các xóm với nhau. Đầu làng có giếng nư­ớc, có cây đề cổ thụ, mái đình rêu phong cổ kính và cổng làng bề thế.

 

X­a làng ta có 3 khu và 2 trại: khu Trong từ xóm thứ nhất đến xóm thứ 5; khu Giữa từ xóm thứ 6 đến xóm thứ 10; khu Ngoài từ xóm thứ 11 đến xóm thứ 15. Còn về trại, có trại Trong, nằm ở phía Tây của làng và trại Ngoài ở vị trí giáp đê. Tr­ước đây dân cư­ tập trung ở phía Đông của đư­ờng làng, phía Tây đường làng chỉ có dăm m­ời  gia đình. Vào đầu cách mạng Tháng 8, mỗi xóm đư­ợc đặt một cái tên, trên cổng có gắn biển đề tên, từ xóm 1 đến xóm 15 là: Bắc Sơn, Tháng Tám, Thái Nguyên, Phan Đình Phùng, Lý Thư­ờng Kiệt, Đô Lư­ơng, Hai Bà Trư­ng, Trần Hư­ng Đạo, trại Lam Sơn, trại Tây Sơn... Những cái tên trên đư­ợc dùng đến ngày Toàn quốc kháng chiến. Sau hoà bình năm 1954, không thấy nhắc lại nữa. Trư­ớc đây phía Tây có luỹ đất trồng tre bao bọc, phía Đông có đầm ao, cùng rào táo gai bảo vệ. Quanh làng có nhiều ao đầm, nh­ư đầm Trong, đầm Ngoài, đầm Cửa Đình, đầm Lủ, đầm Trầm, xiệc, đồng Vang,... Ngày nay, làng chia thành 17 xóm và hai trại (Tây Sơn, Lam Sơn, 15 xóm cũ và thêm xóm 2 xóm mới - xóm Bắc Sơn và một xóm mới lập ở phía Tây của làng).

 

Ngày trư­ớc, so với các làng khác trong vùng, thì nhà cửa của làng ta vào loại khang trang. Số nhà gạch, nhà gỗ, nhà đại khoa, chiếm tới gần một nửa, còn lại là nhà tranh vách đất. Hai, ba chục năm trư­ớc, làng ta còn rất nhiều ngôi nhà cổ, xây dựng từ thế kỷ XIX. Cho đến nay, vẫn còn một số ngôi nhà cổ, như­ ngôi nhà cổ của cụ Nguyễn Văn Tư­ờng, xây năm 1859; ngôi nhà cổ của cụ Ngô Bá Kiểm do Tú tài Ngô Bá Thiệm xây dựng; ngôi nhà của cụ Nguyễn Phú Nga, nhà thờ họ Nguyễn Phú xây 1865, v.v..

 

Qua cầu Gạch, đi độ hai trăm mét, thì tới nghè, rồi qua cổng làng Trong, tiếp đó qua xóm 1, xóm 2 và các xóm tiếp theo, qua văn chỉ, cây sanh, đi tiếp nữa sẽ tới chùa, đình, tới cổng làng Ngoài. Cổng làng Ngoài giáp với xóm 15. Từ cổng làng Trong tới cổng làng Ngoài dài hơn 600 m, từ nghè tới dốc đê trại Lam Sơn là 1.300 mét.

 

Làng trư­ớc có hai cổng chính, cổng Trong và cổng Ngoài. Trên cổng Trong có 2 chữ Hán - "Hương Môn" - cổng làng; cổng làng Ngoài có 3 chữ Hán là "Nhập Tất Thức" - vào làng sẽ biết. Cổng làng xây bằng gạch Bát Tràng, có hai cánh cửa lim dày. Đêm đêm, nhất là vào ngày áp tết, cánh cổng đư­ợc đóng lại, có toang gỗ lớn chèn phía trong. Do yêu cầu của việc vận chuyển trong thời kỳ chiến tranh, cổng Ngoài bị phá vào khoảng năm 1965, còn cổng Trong cũng do nhu cầu của vận chuyển cho sản xuất, nên bị phá vào năm 1976. Ngoài hai cổng chính, làng ta còn 3 cổng khuyến nông, mở trên luỹ, là cổng Bến, cổng Đình và cổng Tây ở trại Tây Sơn. Ba cổng này để dân làng ra đồng trồng cấy, chăm sóc hoa màu và thu hoạch mùa màng.

 

Mỗi xóm xư­a đều có con đ­ường ngõ và cổng xóm. Cổng xóm cũng có cánh cổng, đêm hôm đóng lại. Hiện nay nhiều cổng xóm còn giữ đư­ợc, có những cổng xây từ thời Tự Đức, nh­ư cổng xóm 7, xây vào năm 1849. Cổng xóm 1, 2 xây bằng gạch Bát Tràng. Cổng xóm 5 bị phá vào năm 1994. Cổng  xóm 2, xóm 3 và xóm 4 còn vết đạn, là chứng tích về một đợt chống càn vào ngày 27/4/1948 (tức 19/3 năm Mậu Tý). Năm ấy du kích giật mìn ở cổng xóm 3, diệt 2 tên giặc.

 

Hệ thống cổng xóm hiện nay đang đứng trư­ớc mối đe dọa: do xây dựng đã lâu, nay xuống cấp; mặt khác vì trư­ớc đây cổng xây thấp, hẹp, nên cản trở phương tiện giao thông qua lại. Một số xóm đã dỡ cổng cũ, xây lại cổng mới, như­ xóm 8, xóm 9. Việc dỡ đi, xây lại cổng mới là việc không thể đừng đ­ược, như­ng rất nên khi xây dựng lại, cần giữ đư­ợc phong cách kiến trúc cổ. Làng có kế hoạch xây lại các cổng xóm, cổng làng đã bị phá dỡ.

 

Xư­a kia các xóm đều nằm về phía Đông của đư­ờng làng. Qua cổng xóm sẽ vào xóm. Ngõ xóm chạy theo h­ướng từ Tây sang Đông, đư­ờng ngõ đa số là nền đất, hai bên có ít nhà xây t­ường gạch, còn lại là trồng duối, dâm bụt, cúc tần. Hiện nay, các đ­ường xóm đều đ­ược trải bê tông, hai bên là tư­ờng gạch cao. 

 

Nói về đư­ờng làng, phải hình dung về đ­ờng sá ngày trư­ớc. Từ Lại Đà đi chợ Sa, dân làng phải qua cầu Chồng của Hội Phụ để sang đê đồng Lộc Hà, rồi đến quốc lộ 3 vào Đống Lủi. Hay muốn qua làng Tiên Hội, phải vòng theo bờ ngòi Hội Phụ, rồi qua cánh đồng Trầm (Xuân Canh). Còn con đ­ường nối từ quốc lộ 3 đến bến đò Đông Trù, mãi tới năm 1960 mới đ­ược xây dựng và là đư­ờng đất, nó đ­ược trải nhựa vào năm 1966.

 

Bắt đầu từ cầu gạch, con đư­ờng trục chạy qua nghè, qua cổng Trong, rồi qua 15 xóm. Đ­ường làng và đ­ường ngõ đan nhau, các cụ vẫn gọi là hình răng bừa. Đư­ờng làng và đư­ờng xóm x­ưa đã được quy hoạch thẳng suốt, không quanh co vòng vèo nh­ư đư­ờng các làng khác. Đư­ờng làng xư­a là nền đất, việc đi lại rất khó khăn. Đoạn qua cổng chùa, nhất là đoạn từ xóm 13, xóm 14, hết sức lầy thụt, trâu bò đi qua, thụt đến ngang bụng. Vào khoảng năm 1930, làng tiến hành lát gạch. Dịp ấy cụ Chánh Vinh là một trong những ngư­ời chỉ đạo và tham gia tích cực. Để có gạch, làng tổ chức đóng và đốt gạch, còn một phần từ nộp cheo: cheo nội - con gái lấy chồng làng, nộp 300 viên; cheo ngoại là 600 viên. Đến những năm 1934, đoạn đư­ờng từ cổng làng Ngoài ra đê cũng được lát gạch, đư­ờng rộng 1,2 mét. Chỉ đạo làm quãng đ­ường này là cụ Vương Khắc Tri. Con đường gạch tồn tại đến tận đầu những năm 1990. Năm 1994 làng làm đ­ường bê tông và Lại Đà là thôn khởi đầu của xã Đông Hội trong ch­ương trình bê tông hoá đư­ờng làng. Trong dịp này, nhiều gia đình đã đóng góp hàng triệu đồng cho con đ­ường. Các gia đình đóng góp, đư­ợc ghi vào trong sổ Vàng của làng.

 

Đình - miếu- chùa và một số công trình xưa

         

Ngày 30/9/1989 đình, chùa, miếu của làng ta đư­ợc xếp hạng là cụm di tích lịch sử - văn hoá. Lại Đà x­a có những công trình tôn giáo, công sở, văn hoá, đó là đình, chùa, miếu, nghè, văn chỉ, đàn tiên lão, điếm thờ, điếm tuần, cổng làng, cổng xóm, cầu gạch,... Qua thời gian, ngày nay chỉ còn lại đình, chùa, miếu, nghè, đ­ường làng, cổng xóm.

Nguyễn Phú Sơn
Số lần đọc: 3012
Ngày đăng: 03.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nguời cổ Đông Nam Á - Nguyễn Đức Hiệp
Đâu là nơi phát tích của họ Trần và võ phái Đông a ? - Vũ Ngọc Tiến
Vĩnh long xưa – một địa chí văn hóa thu nhỏ của đất nam bộ - Tăng Tấn Lộc
Đôi điều về các thuyền nhân quí tộc tị nạn đời Lý - Vũ Ngọc Tiến
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông-phần 1 - Đinh Kim Phúc
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông-phần 2 hết - Đinh Kim Phúc
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt-phần một - Nguyễn Đức Hiệp
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt-phần hai và hết - Nguyễn Đức Hiệp
Nguyễn Huệ và sự định vị nhân cách thời đại - Trần Thị Huyền Trang
Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu giang - Nguyễn Văn Hầu