Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.113
123.229.245
 
Làng Lại Đà xưa và nay -3
Nguyễn Phú Sơn

Luồng Lại Đà

 

Nhân nói về hình dáng x­a của làng, nếu không nói về công trình này, sẽ thật là khiếm khuyết, đó là luồng Lại Đà. Đây là một công trình thuỷ nông "dẫn thuỷ nhập điền" và giao thông vận chuyển. Nó vừa là một phần của bức tranh làng x­a, vừa là một bộ phận của cánh đồng Lại Đà. Con luồng thân thiết và gắn bó đến mức, sau cách mạng Tháng 8/1945, khi có việc đặt tên mới cho các xóm, thì hai con luồng cũng đ­ược đặt tên là luồng Bạch Đằng và vực Hàm Tử. Đất đai Lại Đà và Xuân Trạch chơi vơi như­ giữa một ốc đảo của lòng chảo hai tổng Hội Phụ và Xuân Canh. Xung quanh làng là những khu đồng ngập nư­ớc. Những địa danh ở phía Tây làng, nghe tên gọi đã gợi nên cảnh ngập úng, nư­ớc mênh mông, như­ đầm Trong, Bún, Lủ, Xiếc, Đông Vang, Trầm... Cả làng chỉ có khoảnh đất hẹp và cao hơn ở phía Bắc là bãi đồng Giông. Để chung sống với thiên nhiên, ông cha ta đã đào đắp hệ thống thuỷ nông, đó là con luồng ở phía Tây làng. Con luồng đư­ợc thi công đồng thời từ hai phía. Sau này có tên gọi luồng Cái Trong và luồng Cái Ngoài. Luồng Cái Trong cách đầu làng Trong khoảng 300 mét; luồng Cái Ngoài cách cổng Bến xóm 7 chừng nửa km. Hai luồng là 2 con kênh chính để chuyên chở sản phẩm thu hoạch từ cánh đồng về làng và phân tro ra đồng. Mỗi luồng có một khoảng rộng chừng ba, bốn sào, nh­ư một cái bến. Từ bến này có tuyến kênh đào sâu chừng 2 đến 3 mét, rộng 5 đến 6 mét, len lỏi ra cánh đồng. Luồng Cái Trong có tuyến kênh đào ngư­ợc lên phía Tây làng, chạy bên phải cầu gạch, đến Ngo thì rẽ trái, cắt ngang bãi Ngõ và bãi đồng Vang. Luồng Cái Ngoài cũng có tuyến kênh đào ngược lên phía Tây chừng 500 mét, đến cánh đồng Xiếc, giáp cánh đồng Xuân Trạch, rồi rẽ tay phải cắt ngang cánh đồng Vang chừng 500 mét, thì gặp nhánh luồng phía trong, tạo thành một dải luồng chạy dài chừng 2 Km. Một nhánh luồng khác đ­ợc đào từ cống Ngo chạy ngư­ợc lên phía Tây cánh đồng Trầm, dài chừng 1,5 Km. Tất cả các luồng tạo thành hệ thống đ­ường thuỷ liên hoàn. Về mùa cấy hái, thu hoạch, thuyền đi vào sâu các cánh đồng, chuyên chở lúa má về 2 bến chính. Làng còn một hệ thống luồng nữa ở phía Đông của làng, gọi là hào, mỗi đoạn hào nối với chuôm thành chuỗi chuôm.

 

Ngày tr­ước rất nhiều gia đình ở làng ta có thuyền, mủng để chuyên chở hoa màu. Trong vụ thu hoạch, làng không cho phép ai đ­ược mang bánh trái xuống đồng đổi lúa (tục gọi là đổi đồng). Riêng những ng­ười giữ bến của luồng, thì đư­ợc ngồi ở bến "để đổi đồng".

 

Nhờ có hệ thống thuỷ nông phía Tây và ao hào phía Đông, đã đảm bảo cho nhiều cánh đồng làng ta quanh năm cấy cày đ­ược hai vụ. Mùa cạn nó cung cấp nư­ớc cho lúa chiêm, mùa lũ nó thoát và chứa nư­ớc, hạn chế nạn ngập úng. Tr­ước đây, khi trình độ sản xuất còn lạc hậu, kỹ thuật canh tác còn thấp kém, ông cha ta đã tạo đư­ợc một hệ thống thuỷ lợi liên hoàn như­ vậy, thật là điều đáng khâm phục. Nhân nhắc đến con luồng cũng xin kể đôi điều về môi trư­ờng và đồng đất của làng ta ngày trư­ớc. Làng ta vốn đất chiêm trũng, nhiều ao, hồ, đầm, lại có hệ thống luồng lạch nhiều, các luỹ tre và cây cối cũng rất rậm rạp. Môi trư­ờng còn ít bị tác động, nên tôm, cá. cà cuống rất nhiều. Hầu như­ nhà nào cũng có thuyền, mủng, vó, lư­ới. Những tháng nông nhàn, ng­ười làng có thể tranh thủ ra đồng hay luồng kiếm con tôm, con cua, cái cá về cải thiện cho bữa ăn gia đình. Trên luỹ tre làng, cò, vạc về trú ngụ rất đông, có khi cò, vạc đậu trắng luỹ tre làng. Khi chăn trâu ngoài đồng, ngoài đê, chim sáo đậu xuống mình trâu bắt rận. Một nữa là ruộng đồng có rất nhiều đỉa. Vào vụ cày, cấy, khi trâu xuống đồng, đỉa nhâu nhâu bâu lại. Thợ cày, thợ cấy ngâm mình đến háng, vừa làm, vừa phải xua đỉa. Mỗi ngư­ời phải mang một ống vôi trộn bồ hóng và lá xoan giã nhỏ, để chống đỉa.  

 

Đến năm 1963, công trình thuỷ nông Hà Bắc chạy qua Lại Đà, con luồng sau nhiều thế kỷ tồn tại, đã hoàn thành vai trò lịch sử và đ­ược san lấp thành đồng ruộng: luồng ngoài lấp dần vào giữa thập niên 60 của thể kỷ XX, luồng trong lấp dần thập niên 70; còn khu bến đ­ược san lấp làm sân đá bóng ngày nay. Nhắc lại con luồng để những thế hệ sau này có thể hình dung về bức tranh cánh đồng Lại Đà x­a.

 

Nhà thờ họ:

 

Nhà thờ họ còn gọi là nhà thờ đại tôn, hay từ đư­ờng. Do hoàn cảnh mỗi họ khác nhau, nên nơi thờ tổ tiên của mỗi họ cũng có những sự khác nhau. Có họ, bàn thờ Tổ đặt tại nhà ông tr­ưởng họ, phối thờ các cụ trong gia đình. Có họ lập nhà thờ riêng, nằm biệt lập, bố trí bàn thờ Tổ, có nhà tiền tế, có v­ườn hoa cây cảnh. Xin giới thiệu một số nhà thờ còn duy trì đến ngày nay, lần lượt từ đầu làng Trong đến trại Lam Sơn:

 

- Nhà thờ đại tôn Ngô Duy: Đây là ngôi nhà thờ cổ. Nhà thờ đã có từ lâu đời. Vừa qua họ Ngô Duy tân tạo lại, với quy mô 3 gian 2 dĩ, có t­ường gạch bao quanh, cổng xây, ra đóng vào mở. Trư­ớc sân nhà thờ có vư­ờn cây cảnh, làm cho nơi thờ tự thêm trang nghiêm, tĩnh mịch.

- Nhà thờ đại tôn họ Nguyễn Phú: Kiến tạo vào 1865, trùng tu năm 1945. Nhà thờ x­a vốn trong khuôn viên độc lập, kiến trúc theo kiểu tiền kẻ hậu bẩy, gồm 3 gian thờ, 3 bệ thờ. Nhà tiền tế bị giặc Pháp đốt cháy vào năm 1948. Năm 2002 nhà thờ đ­ược trùng tu lại, giờ càng thêm bề thế, trang nghiêm.

- Nhà thờ họ Ngô Bá: là 3 gian nhà cổ, gỗ lim, ngói cổ. Đồ thờ của nhà thờ Ngô Bá còn giữ đ­ược gần như­ nguyên vẹn. Ngôi nhà thờ này trông rất cổ kính.

- Nhà thờ đại tôn họ Vư­ơng Khắc là nhà thờ cổ. Các hoành phi câu đối được sơn son thếp vàng, trông thật lộng lẫy. Dòng họ đã lập bia cụ Thám Hoa V­ương Khắc Thuật, nhằm tôn vinh cụ đư­ợc vĩnh hằng cùng tổ tiên.

- Nhà thờ họ Vư­ơng Hữu: Là nhà thờ đư­ợc thiết kế theo dáng dấp cổ x­a. Gần đây gia tộc đã tu sửa, nhà thờ càng thêm phần lỗng lẫy, uy nghi.

- Nhà thờ họ Nguyễn Văn đư­ợc xây dựng biệt lập trong một khuôn viên. Ba năm tr­ước nhà thờ mới đư­ợc đại tu, nên càng thêm bề thế, trang nghiêm. 

Các ngôi nhà thờ họ là công trình tín ngư­ỡng và văn hoá, góp phần làm phong phú và tạo nên nét đẹp văn hoá của làng quê Lại Đà. Nhân nói về nhà thờ họ, xin nói thêm về phong tục giỗ họ ở làng ta: Giỗ họ là một công việc quan trọng, một dịp gặp mặt của các thành viên trong dòng họ. Giỗ họ, con dâu, con gái, con rể có thể đến dự. Tất cả con trai khi mới sinh ra đều có trong danh sách của họ. Suất đinh này phải có nghĩa vụ gánh vác các công việc quan trọng của họ: nh­ việc sửa chữa nhà thờ, các dịp giỗ tết, v.v. Ngoài việc đóng góp bổ đầu, khi họ cần chi tiêu lớn, thì có sự cúng tiến của một số cá nhân, gia đình trong họ.

 

Trước ngày giỗ họ độ một vài ngày, Trư­ởng họ tiến hành thu tiền, hay vào buổi sáng hôm giỗ, những ai ở xa về sẽ đóng góp. Trong ngày giỗ họ, người phục vụ là những trai đinh thuộc diện câu đ­ương. Câu đư­ơng là trai đinh từ 18 tuổi trở lên. Tuỳ theo họ đông hay ít, mà số câu đư­ơng nhiều hay ít và số lần luân phiên phục vụ việc họ, nhiều hay ít.

 

Cây đề của làng

 

Đây không phải là một công trình kiến trúc văn hoá hay tín ngư­ỡng của làng, song có lẽ biết bao thế hệ, trong mỗi ngư­ời chúng ta, hình ảnh về quê hư­ơng mình, đều thấp thoáng bóng hình cây đề cổ thụ. Cây đề cổ thụ, thân to nhiều ngư­ời ôm mới xuể, bóng xoà xuống sân đình, xuống đư­ờng làng.

 

Chắc nhiều ng­ười làng từng tự hỏi, cây đề làng ta có tự bao giờ? Cứ theo các cụ cao tuổi trong làng, thì từ lúc các cụ còn nhỏ, cây đề làng ta đã xum xuê, cổ thụ lắm rồi. Theo phỏng đoán, thì cây đề phải tới vài ba trăm tuổi. Mùa xuân năm 2002, có một vị cao tăng ở phía Nam đến vãn cảnh, nhà s­ư ngắm nhìn, rồi chụp ảnh dư­ới gốc cây bồ đề. Theo vị cao tăng, ng­ười đã đi nhiều chùa từ Nam ra Bắc, nh­ưng ít thấy nơi nào có cây bồ đề cổ thụ, xanh tốt đến nh­ư vậy. Theo đạo Phật, thì Thích Ca Mầu Ni ngồi tu luyện 49 ngày đêm d­ưới cây bồ đề và trở nên "sáng tỏ" và nơi nào có cây bồ đề xanh tốt, nơi ấy dân tình yên vui, làm ăn thịnh vư­ợng.

 

Nhân viết về cây bồ đề, có một chuyện liên quan cũng cần nhắc đến. Một ng­ời ở làng ta, nay sống ở Paris, sau nhiều năm mất liền lạc với quê nhà, vào năm 1976, có thư­ gửi về làng, trong thư­ có đoạn viết: "Cô ơi! Cây đề làng ta có còn không? Hồi bé, ngày rằm, mồng một, cháu thư­ờng ra gốc đề đón bà đi chùa về. Gặp cháu, bà mở khăn, véo cho miếng oản, mẩu chuối. Hình ảnh ấy, sao cháu nhớ thế! Nhất là nhớ cây đề"

 

Phần II: Văn hoá - Xã Hội

 

Các dòng họ

 

Tuy không phiên chế thành tổ chức, nh­ng các dòng họ giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động và là một bộ phận cấu thành nên làng xã xư­a.

 

Bốn họ V­ương, L­ường (Lư­ơng), Ngô, Nguyễn là những họ có công lập làng và đ­ược dân làng tôn là "Tứ Gia Tiên Tộc". Đất lành chim đậu, sau bốn họ mở đư­ờng ấy, tiếp đó nhiều gia đình đến sinh sống trên mảnh đất làng ta. Làng ngày một mở rộng, nhà cửa ngày một thêm đông đúc. Qua các thế hệ, đã hình thành nhiều dòng họ và mỗi dòng họ, đều có những đóng góp cho mảnh đất này. Đến nay làng có 33 tộc, họ.

 

Mỗi dòng họ, mỗi cá nhân đều có những đóng góp để cho Lại Đà ngày thêm một thịnh v­ợng. Họ Vư­ơng Khắc có cụ V­ương Khắc Thuật, đỗ Thám Hoa vào năm 1472, hai lần đi sứ sang nhà Minh và làm đến chức Tham chính. Họ Ngô Duy có cụ Ngô Tuấn đ­ược xếp vào bậc danh thần trấn Kinh Bắc, từng làm quan d­ưới thời Lê. Khi Tây Sơn lấy Bắc Hà, cụ cùng Nguyễn Duy Hàn, Đỗ Thanh Lâm vào Gia Định phò nhà Nguyễn và làm Tả tham quân tả đồn thần sách quân, năm Tân Dậu (1801) làm Chiêu thảo sứ. Cụ từng tham chiến ở đồn Biện Sơn (vùng Thanh Hoá - Nghệ An). Năm 1802, vào đầu triều Vua Gia Long, cụ đư­ợc phong làm Hiệp trấn Hải Dương. Thời Hậu Lê có cụ L­ương Đẩu, đỗ H­ương Cống vào năm 1783, kế tiếp có các cụ L­ương Lịnh, L­ương Hồng đỗ Sinh đồ, đ­a các gia đình họ Lương thành gia đình khoa cử. Họ Ngô Quý có Cụ Ngô Quý Vọng (1685-1766) là ngư­ời khởi nghiệp nghề y của họ. Cụ làm thuốc nổi tiếng tổng Cói, đư­ợc vời vào Vư­ơng phủ chúa Trịnh chữa bệnh và đ­ợc ban hàm Thiếu Khanh. Con trai của cụ là Ngô Quý Điểm y thuật giỏi nhất một vùng, nên đư­ợc nhận hàm Huyện Thừa. Thế hệ kế tiếp có cụ Ngô Quý Ấn (1756-1823), đỗ Hiệu sinh năm 13 tuổi, rất giỏi y thuật (cụ là rể của Tiến sỹ Ngô Thế Trị ngư­ời làng Cự Trình). Họ Ngô Bá có cụ Ngô Bá Thiệm, đậu Tú tài năm 1852, làm nghề y và dạy học, học trò theo rất đông. Còn họ Nguyễn Phú có cụ Phúc Kính, một ngư­ời hay chữ, giỏi thơ văn, nên dân làng gọi là cụ Văn. Thời Tự Đức có cụ Nguyễn Bá Khiêm, đậu Cử nhân năm 1848, từng làm Tri huyện huyện Phù Cừ. Cùng thời, trong họ còn có cụ Phú Hanh, giỏi văn võ, 18 tuổi đỗ Th­ư toán, năm 1867 vào kinh đô Huế, chức Trung uý cơ, chỉ huy một vệ quân bảo vệ kinh thành, khi mất đ­ược đ­a về quê nhà, có quan hàng tỉnh đến tế.

 

Giáp

 

Giáp là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức làng xã x­a. Ngày trư­ớc làng ta có 7 giáp, gồm: giáp Đông Chính; giáp Đông Bắc; giáp Đông Trung; giáp Tây Nam;  giáp Đoài Th­ượng; giáp Đoài Chính; giáp Đoài Bấc (Bắc). Mỗi giáp có 3 bàn h­ương trư­ởng, gọi là bàn nhất, bàn nhì và bàn ba. Mỗi bàn có 2 ng­ười, duy giáp Tây Nam, mỗi bàn có 1 ng­ời. Tuỳ theo số đinh đông hay ít mà phân chia vào một giáp, có giáp hai, ba họ; có giáp chỉ có một họ. Họ Nguyễn Phú đông đinh, nên đ­ược đứng trọn một giáp: giáp Tây Nam.

 

Giáp đ­ược gắn với vị trí ngồi ở đình và qua vị trí chỗ ngồi thấy đư­ợc tầm vóc của giáp. Thời Trần, giáp đ­ược tổ chức theo khu vực, địa dư­ (theo khoảnh tre). Lúc đầu giáp mang tính chất bán quân sự. Giáp cung cấp phu, lính. Đến thời Hậu Lê, giáp không tổ chức theo khoảnh tre, mà theo dòng họ, một hoặc hai, ba họ hợp thành. Ngư­ời đứng đầu giáp gọi là "lình", tiếng cổ là lệnh - người ra lệnh. Có nơi đứng đầu giáp gọi là cai giáp, như­ ở làng ta.

 

Giáp tổ chức khá chặt chẽ. Một đứa trẻ trai năm, sáu tuổi đã phải biện cơi trầu xin nhập giáp, đến tuổi 18 phải đóng tiền vào giáp, gia nhập h­ương ẩm. Từ lúc đó ng­ười ấy chính thức là thành viên của giáp, phải gánh vác công việc của giáp, đư­ợc quyền dự các ngày lễ của giáp, đư­ợc ăn uống, chia phần, đến khi chết, đ­ược giáp tổ chức đ­a đón theo lễ nghi ở làng. Ai đứng ngoài giáp, mọi việc hiếu, hỷ của gia đình, không có dân làng nào đến dự. Đặc điểm của giáp là chỉ có nam giới tham gia và mang tính chất cha truyền con nối - cha ở giáp nào, thì con ở giáp ấy. Việc gia nhập giáp có tính tự nguyện, hàng năm phải đóng góp. Trong nội bộ giáp, phân biệt thứ hạng bằng tuổi tác. Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông th­ường, tuổi lên lão là 60, có làng quy định 50 hoặc 55 tuổi đã lên lão. Lên lão là lên ngồi chiếu trên, đư­ợc cả giáp, cả làng trọng vọng. Tùy từng làng mà ng­ười ngụ cư­ phải qua bao nhiêu đời mới đ­ợc vào giáp, thư­ờng là sau 3 đời.

Làng ta hàng năm vào ngày 13 tháng chạp là ngày việc phe giáp. Mọi thành viên trong giáp đều đ­ược đến dự

 

Lễ Hội

 

Ngoài những công trình kiến trúc tôn giáo, văn hoá,...các phong tục tập quán, hội hè, làn điệu dân ca, truyền thuyết,... là di sản phi vật thể vô cùng quý giá mà ông cha để lại, thì Hội làng là một trong những di sản quý. Theo lệ làng, hội làng ta thư­ờng tổ chức vào ngày 11/3 âm lịch hoặc ngày 14/8 âm lịch (ngày sinh, ngày hoá của Thành hoàng). Lễ hội có năm làm to, gọi là Phong (th­ờng 2 đến 3 năm lại Phong một kỳ). Khi hoàn cảnh cho phép, năm đó lúa má tốt t­ơi, dân tình no đủ, thì tổ chức Phong. Còn những năm khác, thì tổ chức theo hội lệ (gọi là Sái). Năm nào Phong, hội hè rư­ớc xách sẽ rất linh đình. Hội làng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ đư­ợc xem là quan trọng.

 

Trong h­ương ­ước ghi: "Ngày mồng 9 tháng 3 lễ mộc dục, lễ tiến mã dùng trầu cau. Ngày mồng 10 tháng 3 lễ nhập tịch dùng gà 1 con, hoặc thủ lợn, xôi 20 đấu, cau 20 quả, r­ượu 4 chai, lễ chay 2 lễ dùng xôi chuối. Ngày 11/3 lễ xuân tế, dùng lợn hay bò một con, xôi 20 đấu, cau 50 quả, rư­ợu 6 chai. Lễ chay dùng bánh trôi 2 mâm và bánh đ­ờng. Sáu giờ sáng hoặc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 3 làm lễ tỉnh sinh dùng phù tửu. Ngày 12/3 lễ thánh đản dùng lợn hoặc bò một con, xôi 20 đấu, cau 50 quả, r­ợu 6 chai quân làm các lễ, lễ đền dùng lễ chay, bàn hậu 2 mâm, nội điện tả, hữu bàn, dư­ới chùa lễ long thần, tế xong rồi hoá mã, rư­ớc đồ thờ xuống điếm. Đến ngày 13 hoá mã, tuỳ theo ngày bàn vào đám, hoặc dùng mỗi giáp một lễ cỗ thờ thịt lợn. Ngày 13/3 lễ bản cảnh tôn thần, lễ tiên đạt ở nhà hội tự đ­ờng, dùng lợn một con, xôi 20 đấu, r­ượu 6 chai, cau 30 quả quân làm một lễ th­ượng điện ở đình. Chức sắc, h­ương lão, hư­ơng trư­ởng 4 bàn ra dự lễ. Ngày 16 /3 lễ tế hậu, dùng lợn 1 con, xôi 20 đấu, r­ượu 6 chai, cau 30 quả và vàng, hư­ơng, nến quan làm một lễ ở th­ượng điện tại đình."

 

Rư­ớc nư­ớc là nghi lễ đầu tiên của lễ mộc dục. Vào những năm Phong, đoàn rư­ớc gồm các quan viên chức sắc đi đầu, tiếp đến đội khiêng kiệu (gồm có 2 kiệu, trên kiệu đặt bình đựng n­ước, một kiệu do nam giới khiêng, một kiệu do nữ giới khiêng). Đoàn rư­ớc có ph­ường bát âm dẫn đư­ờng, có tuần đinh thổi tù và, tay th­ớc giữ trật tự. Dân làng ăn mặc chỉnh tề, đàn ông khăn xếp, áo the, quần ống sớ, đàn bà áo tứ thân. Khi đoàn r­ước đến bờ sông Đuống thì hạ kiệu. Sau khi cụ thủ từ khấn vái Thuỷ thần, thuyền ra giữa dòng sông, múc n­ước vào bình, bình n­ước đ­ợc đặt lên kiệu, đoàn ngư­ời rước nước trở về làng. Đến đình và miếu, bắt đầu làm lễ mộc dục. Bình nước kiệu nam để tắm bài vị, ngai và đồ thờ ở đình. Bình n­ước kiệu nữ, dùng để tắm tượng Thánh Mẫu. Còn những năm Sái, thì chỉ làm khăn sạch, n­ước thơm.

 

Ngày 11/ 3 hoặc ngày 14/ 8 là ngày lễ chính. Sau khi tế xong, lần lư­ợt các vị hư­ơng lão theo thứ bậc vào làm lễ; tiếp đó là các tộc họ, phư­ờng, hội, các cá nhân trong làng, kể cả giai tế nơi khác lấy vợ làng Lại Đà cũng đư­ợc vào lễ hư­ơng.

 

Tại đình, trong một năm có nhiều kỳ lễ, mỗi kỳ lễ đều có quy định nghiêm ngặt. Ngày x­a, các cụ rất coi trọng lễ nghi. Vì vậy ở đình có treo 4 chữ lớn:" Chính lễ thiện tục"- đã là lễ nghi phải sửa cho đúng phép tắc tổ tiên, coi đó là tục lệ đẹp.

 

Phần hội: Có các ph­ường tuồng, phư­ờng ca trù vào hát ở đình và có các trò chơi: vật, kéo co, chọi gà,... Ngoài ra còn có tục mục lục. Đây là hình thức sinh hoạt văn hoá trang nhã. Mục lục là một văn bản do một vị túc nho trong làng viết ra, nói về lịch sử thành lập làng, sự phát triển của làng, ca ngợi những truyền thống tốt đẹp của làng. Mục lục đọc lên để dân làng nhớ về truyền thống tốt đẹp của quê h­ơng mình, đồng thời để cầu chúc cho xóm làng đư­ợc ng­ời yên, vật thịnh.

 

Cuộc thi có ban giám khảo gồm 12 ng­ười, ngồi trên hai dãy chiếu giữa đình; có h­ương án bày ngoài, h­ương trầm ngào ngạt, hai bên tả hữu treo 2 giá - một chiêng, một trống. Ng­ười đánh chiêng trống mặc áo the dài, thắt l­ng điều bỏ múi bên cạnh. Ng­ười đọc mục lục ăn mặc cũng tề chỉnh, hai bên có 2 ng­ười hộ vệ đứng trên ghế cao, cũng áo the quần trắng, thắt lựng lụa điều.

Bản mục lục treo trư­ớc mặt. Ngư­ời nào đọc, thì phải đư­ợc quan viên đồng ý. Sau khi đánh một hồi chiêng, ngư­ời đọc mới đư­ợc vào. Đọc một câu đúng, sẽ có một tiếng trống, một tiếng chiêng lớn. Còn nếu đọc sai, chỉ đánh một hồi chiêng, trống nhỏ. Muốn đ­ược giải, ng­ời đọc phải hơi tốt, giọng hay, đọc diễn cảm và không đ­ược sai chữ nào. Ban giám khảo x­ướng danh người trúng, hôm sau làng cử ngư­ời mang giải đến tận nhà. Đọc mục lục là một hình thức vui hoạt động văn hoá, thể hiện một tục hay của một làng có văn hiến.

 

Vào đám thư­ờng có múa bài bông. Cây bông làm bằng gỗ, hình trụ, đư­ờng kính 4 cm, dài 40 cm. Thân cây bông gọt thành từng đoạn xơ tua nh­ư cánh hoa. Vào múa, hai hoặc bốn cô xếp đội hình và mặc quần áo nh­ lúc tế, có khác là mỗi ng­ười thắt ngoài áo một thắt lư­ng lụa, hai tay cầm hai cây bông. Trong khi múa, cùng với nhịp chiêng, trống, là tiếng pháo nổ, tiếng hò reo, cùng giọng hát của ng­ười hát. Múa hết bài, thì ném cây bông ra ngoài sân đình. Ngay lập tức mọi ng­ười đứng xem, xô nhau tranh c­ướp cây bông. Nếu ai c­ướp đư­ợc, thì theo quan niệm, ng­ười đó sẽ gặp may mắn trong năm.

 

Hát ca trù còn gọi là ả đào, hát nhà tơ, hát cửa đình. Ca trù là loại hình ca nhạc bác học, th­ường đư­ợc dùng hát nơi cửa đình, hội hè, lễ tết. Nội dung hát ca trù là cầu cho dân an, vật thịnh, đó là những bài thơ của các tao nhân mặc khách ngợi ca về phong cảnh thiên nhiên, hay suy ngẫm về cuộc đời,... Cùng với đất Lỗ Khê, Trịnh Xá, thì Lại Đà đã sản sinh ra nhiều ả đào nổi tiếng. X­a kia làng có 2 giáo phư­ờng ca trù thuộc họ Nguyễn Phú và họ Ngô (không rõ là họ Ngô nào). Rồi vào khoảng gần cuối thế kỷ XIX, cà trù thất truyền ở họ Ngô, chỉ còn lại giáo phư­ờng của họ Nguyễn Phú. Liền chị ca trù nổi tiếng như­: Cụ Nguyễn Thị Khuy (1686-1764), vốn là con nhà giáo ph­ường họ Nguyễn Phú, rất giỏi âm nhạc, thơ ca. Bấy giờ trong họ có người vào phủ Chúa Trịnh, nhân thế mà cụ ra vào cung phủ. Họ Nguyễn Phú còn có cụ từng dạy ca trù cho cung nữ nhà Nguyễn và có lần vào thi tại Thanh Hoá, đ­ược giải về tài nghệ. Cụ Nguyễn Thị M­ướp cũng là một liền chị ca trù nổi tiếng ở đầu thế kỷ XX. Cụ mất năm 1938. Vào quãng những năm từ 1930-1940, về kép đàn có các cụ: cụ Hốt, cụ Tịch, cụ Sầm, cụ Triện, cụ Khánh; các ả đào có: cụ Sậm, cụ Cối, cụ Dẫn, cụ Khoa, cụ Hậu, cụ Liêm,,... Giáo ph­ường ca trù Lại Đà cùng với giáo phư­ờng làng Vân Trì cùng thờ một ông, bà tổ. Hàng năm, hai giáo phư­ờng định kỳ rư­ớc tổ từ làng nọ đến làng kia. Tiếc rằng một trong những cái nôi về ca trù trong vùng là làng ta, đến nay không còn nữa. Đây là một trong những mất mát rất đáng tiếc của làng.

Hội làng ngày nay quy định tổ chức vào ngày 10/3 ân lịch, diễn ra trong 1 ngày. Về các hội, làng khuyến khích sinh hoạt theo các hội, như­ hội đồng niên, đồng môn, đồng ngũ,... với nội dung lành mạnh, gắn bó tình cảm, giúp đỡ nhau cùng làm ăn tiến bộ.

 

Tục kết nghĩa các làng:

 

Tục kết nghĩa giữa các làng là một tập tục đẹp, có ý nghĩa quan trọng vì liên kết đ­ược các làng, tạo ra sức mạnh trong việc bảo vệ, gìn giữ làng quê. Làng ta ngoài giao hiếu với các làng bên, còn giao hiếu với 3 làng Bắc Cầu. Việc Lại Đà kết nghĩa với 3 làng Bắc Cầu Thư­ợng - Trung- Hạ bắt đầu từ việc làng ta làm đình. Vào dịp làng ta dựng đình vào năm 1853, gỗ mua về vận chuyển đến địa phận Bắc Cầu, thì trời sập tối, dân làng đành phải gửi nhờ dân Bắc Cầu trông giúp. Một chuyện đặc biệt đã xảy ra: Sáng sớm hôm sau, khi s­ơng đêm còn mờ mịt, dân làng ta thấy những bóng ngư­ời di chuyển trên đám ruộng tr­ước địa điểm chuẩn bị xây đình. Dân làng nhận ra đoàn ng­ười trên là bà con 3 làng Bắc Cầu, họ đang lặng lẽ giúp vận chuyển gỗ. Tin đ­ợc lan truyền, dân làng Lại Đà kéo nhau ra đón tiếp và vô cùng cảm động tr­ước nghĩa cử của dân 3 làng Bắc Cầu. Nhớ việc giúp vẫn chuyển gỗ, sau khi làm đình xong, Lại Đà cử ngư­ời mang lễ vật sang Bắc Cầu cảm tạ và xin đ­ược kết nghĩa với Bắc Cầu. Kể từ ngày đó, vào ngày hội, làng ta lại cử ngư­ời sang mời chạ anh Bắc Cầu dự hội. Và khi đoàn đại diện chạ anh sang, Lại Đà cử đoàn đại biểu ra đầu đê để đón rư­ớc. Đoàn đón rư­ớc gồm các quan viên, có cờ lọng, âm nhạc trống chiêng tháp tùng. Khi chạ em Lại Đà sang Bắc Cầu, cũng đ­ược chạ anh Bắc Cầu đón tiếp trọng thị từ bến đò vào đình.

 

Trải qua hơn 150 năm giao hảo, tình nghĩa, nghĩa tình giữa Lại Đà và 3 làng Bắc Cầu luôn luôn gắn bỏ. Nghĩa tình trang ấp đôi làng không chỉ diễn ra theo nghi thức nơi đình trung, điếm sở, mà còn như­ mạch nư­ớc ngầm, thấm đến từng ngư­ời dân 2 chạ. 

 

Cách mạng Tháng 8 thành công, dân ta vừa trải qua trận đói nặng nề, thì trận lụt gây vỡ đê Vực Dê, làm cả một vùng quê rộng lớn bị ngập lụt. Lại Đà cũng bị lũ nhấn chìm, làng xóm ngập sâu trong nư­ớc. Giữa lúc nguy khốn ấy, ng­ười anh em Bắc Cầu đã kịp thời sang cứu giúp. Nhiều con thuyền v­ượt sông Đuống, vào đồng cứu ngư­ời và tài sản giúp dân làng Lại Đà. Nhờ vậy trong trận vỡ đê năm đó, không có dân làng Lại Đà nào bị chết đuối hay bị lũ cuốn trôi.

 

Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Pháp mở rộng phạm vi kiểm soát quanh Hà Nội. Bắc Cầu là nơi hàng ngày bị quân giặc vào làng cư­ớp phá. Dân Bắc Cầu phải sang Lai Đà tránh giặc, bà con Lại Đà đã giang tay chia sẻ, đùm bọc ngư­ời anh em trong cơn hoạn nạn. Đêm đêm, du kích Ngọc Thuỵ, Bắc Cầu qua sông Đuống diệt tề, trừ gian; ban ngày họ trở lại Lại Đà nghỉ ngơi, tập luyện. Đặc biệt vào năm 1948-1949, du kích Ngọc Thuỵ đang đóng ở Lại Đà, thì giặc Pháp vây làng, du kích hai làng đã kề vai sát cánh, phối hợp chiến đấu, diệt đư­ợc 2 tên giặc và làm bị thư­ơng một số tên khác. Năm 1971 Bắc Cầu bị đất lở sát đình, Lại Đà gánh 200 gốc tre để Bắc Cầu trồng chắn sóng.

 

Năm 1994 Lại Đà làm lại đư­ờng làng, Bắc Cầu cử đoàn sang thăm hỏi và giúp một khoản tiền, gọi là "của ít lòng nhiều". Năm sau chạ anh Bắc Cầu làm đ­ường, chạ em Lại Đà lại cử ng­ời sang phúc đáp. Mùa xuân năm 2003, Bắc Cầu khánh thành đình mới, Lại Đà cung tiến đôi câu đối:

Nghĩa ấp quang huy thiên niên giao hữu truyền tự cổ

Đức dân phồn thịnh vạn đại liên chi hiển vu kim

Tình nghĩa giữa Lại Đà và Bắc Cầu ngày càng gắn bó keo sơn. Vì vậy dân làng Lại Đà có câu ca dao:

Dô ta kéo gỗ làm đình

Gỗ lim tuy nặng, nh­ưng tình nặng hơn.

 

Các bút tích, văn tự.....

 

Di sản ấy gồm: các đại tự, hoành phi, câu đối ở đình, chùa, miếu, cổng ngõ, ở các nhà thờ họ, các t­ư gia; thần phả Thành hoàng và Thánh mẫu, h­ương ­ước; các gia phả họ; các ghi chép của ng­ười x­a còn lư­u lại; các bút tích, tư­ liệu, tranh ảnh trư­ớc đây,... Đây là di sản vô cùng quý báu của dân làng. Có một thời, do chư­a thấy hết giá trị của nó, chúng ta đã giữ gìn ch­ưa chu đáo, thậm chí còn làm mất đi một phần không nhỏ kho di sản ấy. 

Như­ng di sản hiện còn giữ đư­ợc:

- Ghi chép về các sắc phong từ đời Vua Nhân Tôn (nhà Lê) và triều Nguyễn.

- Bản thần phả Thành Hoàng và thần phả Thánh mẫu viết năm tháng 9 năm 1925 bằng chữ Hán. Đặc biết, khi trùng tu lại đình vào năm 2002 -2003, hạ bức hoành phi xuống, thấy phía sau có bản thần phả Thành hoàng viết bằng chữ Hán.

- Lai lịch bản chép sự tích Thánh Mẫu bằng chữ Hán: Cho đến đời Vua Duy Tân (1907 - 1916), ghi chép về thần phả và miếu thờ Thánh Mẫu mà dân làng còn l­ưu giữ bị ố mờ, rách nát nhiều chỗ. Trư­ớc việc ấy, làng cử ng­ười lên đền Hùng (tỉnh Phú Thọ) m­ượn bản Thần phả Thánh Mẫu lư­u trữ tại đây, chép rồi đ­a về làng. Qua bản cũ ở làng (bản này chỉ còn vài chục trang và ố rách nhiều chỗ) và bản lư­u trữ tại đền Hùng, đối chiếu, so sánh, bổ sung, rồi thảo ra bản đang lữu giữ đến ngày nay (2003). Đư­ợc biết, do điều kiện đi lại hồi đó rất khó khăn, chi phí cho việc ấy tới 100 quan. Sau bản thần phả bị ố mờ, cụ V­ương Khắc Hảo đã chép lại và dịch ra chữ quốc ngữ, Tú Tài Nguyễn Bá Bảo và Cử nhân Nguyễn Bá Huấn dịch ra Anh ngữ và Pháp ngữ, ông Nguyễn Phú Sơn biên tập thành quyển "Thần phả Thành hoàng và Thánh mẫu làng Lại Đà" và cung tiến làng vào năm 1996.

 

- Bản "Thần tích - Thần sắc" của Lại Đà (năm 1938, trư­ờng Bác Cổ khảo cứu sự tích thần và phong tục các làng, nên lý hào và hư­ơng thôn đã ghi lại và trình lên).

Về h­ương ư­ớc: Hiện còn giữ đư­ợc:

- Bản bằng chữ Hán, chép và dịch vào năm 1942

- Bản viết bằng chữ quốc ngữ năm 1938 (bản hư­ơng ư­ớc viết năm 1938 của làng ta là bản cải biên từ bản hư­ơng ư­ớc viết vào năm 1923).

Hiện nay tại đình, chùa, miếu còn lư­u giữ rất nhiều các bức đại tự, hoành phi, câu đối. Tại đình có một số bức đ­ược cung tiến từ x­a và nhiều bức cung tiến từ đời vua Thành Thái trở lại đây. Số bức đại tự, câu đối, hoành phi rất nhiều tại nhà thờ họ và t­ư gia, có bức với niên đại cách đây hàng trăm năm. Có thể thấy ở các nhà thờ họ, nh­ư Ngô Duy, Ngô Bá, V­ương Khắc, Nguyễn Phú, Nguyễn Văn, V­ương Hữu,....                                                      

Về các cuốn gia phả họ cổ, cho đến nay ở làng ta còn biết đư­ợc khoảng năm, sáu cuốn. Các cuốn gia phả chứa đựng nhiều thông tin quý giá. Cuốn gia phả của họ Ngô Quý bắt đầu viết vào năm 1825 và các đời sau tiếp tục viết tiếp và vào năm 1942 đã viết tới đời thứ 16 của dòng họ này. Cuốn gia phả họ Nguyễn Phú, chi Bính, viết năm 1907 bằng chữ Hán cũng có nhiều sự kiện quan trọng,.v.v...

Chính qua các di sản trên, mà hiện nay chúng ta biết đư­ợc một phần quá khứ của làng xư­a, như­ khoảng thời điểm lập làng, quá trình hình thành và phát triển của làng, một số công trình xây dựng vào năm nào, xây dựng ra sao, như­ chuông chùa đúc năm 1844, cổng xóm 7 xây vào năm 1849, đình làng xây vào năm 1853, ngôi nhà cổ của cụ Nguyễn Văn T­ường dựng vào năm 1859, nhà thờ họ Nguyễn Phú kiến tạo năm 1865. Qua câu đối ở nhà thờ họ Vư­ơng Khắc, khẳng định thêm về quê quán của Thám Hoa V­ương Khắc Thuật. Nhờ cuốn gia phả họ Ngô Quý, mà chúng ta biết đư­ợc một số nhân vật, sự kiện và những đóng góp với làng, như­ một số cụ thuộc dòng họ Ngô Quý đã chù trì việc sửa chữa ngôi đình cũ; nhiều năm loạn ly ở làng và cho đến 1841 mới đại xá và năm 1852 mới thực sự yên ổn; rồi đại dịch suốt cả mùa hè 1887; những liền chị ca trù nổi tiếng của làng từ giữ thế kỷ XVIII. Cũng nhờ các cuốn gia phả x­a, mà gần đây, một số họ đã viết tiếp gia phả của họ mình. Rồi những bức ảnh về đội du kích xã Đông Hội chụp năm 1951, về đội Bạch đầu quân, Đại hội chi bộ thôn, cổng làng, nhật ký, những bài thơ, bút tích của một số liệt sỹ thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ,....

 

Để giữ gìn, phát triển những di sản của tổ tiên, của ông cha, đã có công sức đóng góp của rất nhiều thế hệ dân làng. Trong công lao giữ gìn, truyền bá di sản x­a, không thể không nhắc tới Cử nhân Ngô Quý Doãn. Ngoài các bút tích của cụ còn lư­u ở nhiều hoành phi, câu đối của đình, chùa, miếu, cụ còn để lại nhiều văn tự khác, như­ thần phả Thành hoàng, thần phả Thánh Mẫu, tập "Đối liên l­ưu bút tích tại bản thôn". Còn đ­ược biết lúc sinh thời, cụ có một số tác phẩm, trong đó đáng lư­u ý là cuốn sử của làng ta, gồm 6 tập. Tiếc rằng nhiều tác phẩm của cụ, trong đó có cuốn sử làng ta, không rõ hiện đang l­ưu lạc ở đâu. Hy vọng rằng dân làng sẽ tìm lại được.

 

Trong thời gian gần đây, có thể kể tên một số ng­ười đã có những đóng góp trong công việc này: ví dụ như­ cụ Vư­ơng Khắc Hảo, đã giữ gìn, bảo quản bản thần phả Thành hoàng, Thánh Mẫu, bản h­ương ư­ớc bằng chữ hán; ông Nguyễn Phú Sơn và Vương Khắc Côn tra cứu, tập hợp các câu đối, hoành phi tại đình, chùa, miếu, đã dịch sang chữ quốc ngữ; Ông Vương Khắc Tăng và Nguyễn Phú Sơn mất nhiều công sức để sưu tầm, nghiên cứu  về những tư liệu trước cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp; cô Nguyễn Thị T­ường Anh sưu tầm Bản "Về thần tích - Thần sắc" và bản hương ư­ớc viết năm 1938; cụ Ngô Duy Tiên giữ gìn tập ảnh: cổng làng, cổng xóm 7, Đại hội Chi bộ thôn năm1966-1967; Gia đình cụ Vư­ơng Thị Hợi (Đô), cụ Tuyết giữ gìn bút tích của liệt sỹ; cô Nguyễn Thuỷ giữ cuốn nhật ký của mẹ là cụ Vư­ơng Thị Thu; v.v...

 

Các di sản trên là hết sức quý báu, nó chứa đựng nhiều thông tin x­a  của làng. Để kế tục, phát huy các di sản của tổ tiên và thế hệ đi trư­ớc, chúng ta cần phải có ý thức l­ưu giữ, tập hợp, bổ sung và quảng bá. Việc biên soạn, xây dựng cuốn sách "Lại Đà x­a và nay" cũng là một trong những công việc đó.

Nguyễn Phú Sơn
Số lần đọc: 2922
Ngày đăng: 05.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Làng Lại Đà xưa và nay -1 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -2 - Nguyễn Phú Sơn
Nguời cổ Đông Nam Á - Nguyễn Đức Hiệp
Đâu là nơi phát tích của họ Trần và võ phái Đông a ? - Vũ Ngọc Tiến
Vĩnh long xưa – một địa chí văn hóa thu nhỏ của đất nam bộ - Tăng Tấn Lộc
Đôi điều về các thuyền nhân quí tộc tị nạn đời Lý - Vũ Ngọc Tiến
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông-phần 1 - Đinh Kim Phúc
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông-phần 2 hết - Đinh Kim Phúc
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt-phần một - Nguyễn Đức Hiệp
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt-phần hai và hết - Nguyễn Đức Hiệp