Nho học
Trong khoa trường thi cử Hán học: đỗ Tú tài gọi là tiểu khoa; đỗ Cử nhân gọi là trung khoa; đỗ Phó bảng, Tiến sỹ gọi là đại khoa. Đỗ tiểu khoa, một làng đi rước; đỗ trung khoa một tổng đi rước; đỗ đại khoa, một huyện đi rước.
Đỗ Đại khoa:
Lại Đà và Cự Trình là hai làng cùng thuộc xã Hội Phụ, nên vẫn gọi là "nhất xã nhị thôn". Cự Trình là đất khoa bảng, có nhiều vị đỗ đại khoa nổi tiếng trong vùng. Cùng với Cự Trình, Lại Đà cũng được ngợi khen là đất văn hiến. Từ khoa Giáp trong câu đối ở văn chỉ là biểu thị ở làng có người đỗ đại khoa. Dân làng ta rất tự hào có người đỗ đại khoa sớm nhất và cao nhất của xã Hội Phụ, đó là cụ Vương Khắc Thuật. Cụ đỗ Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ đệ tam danh (tức Thám Hoa) khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 3 (1472) triều Lê Thánh Tông.
Đậu trạng nguyên khoa này là cụ Vũ Kiệt, người huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Thám hoa là một trong ba “học vị” cao nhất (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) của kỳ thi đình. Đồng khoa năm ấy ở làng Hội Phụ có cụ Chử Phong, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân, làm quan đến hình giám sát ngự sử.
Trong thời kỳ này, cùng với Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh, Thám Hoa Lê Ninh, Thám hoa Vương Khăc Thuật là những nhà ngoại giao xuất sắc. Cụ Vương Khắc Thuật từng theo học nhà giáo nổi tiếng Trần Ích Phát, quê ở làng Triều Dương, xã Cổ Thành, huyện Chí Linh, Hải Dương. Cụ Trần Ích Phát là một nhà sư phạm tài năng, học trò theo học rất đông, cụ có tới 68 học trò đậu Tiến sỹ, trong đó 17 người chiếm bảng tam khôi.
Ở làng Lộc Hà có đền thờ cụ và tại nhà thờ họ Vương Khắc có bia ghi công tích của cụ. Xin giới thiệu nội dung một đôi cấu đối thờ ở nhà thờ họ Vơng Khắc:
Hệ truyền phiệt duyệt Lê Tam giáp
Quan tuyệt phong lu Tấn tứ thần
Tạm dịch là:
Họ này có quan đỗ hàng Tam giáp đời Lê
Đức độ, tài ba ngang hàng tứ trụ nhà Tần
Còn tại đền ở làng Lộc Hà có đôi câu đối thờ:
Thám hoa biệt nghiệp kim thành tụ
Thượng tướng linh từ cổ hữu danh
Đỗ cử nhân
Sang đến cuối triều Lê, đầu Nguyễn, tuy Lại Đà không có người đỗ đại khoa, nhưng số Cử nhân, Tú tài lại rất đông.
1- Cụ Nguyễn Văn Trực, đỗ Hương cống thời Hậu Lê
2- Cụ Lương Đẩu, đỗ Hương cống năm Quý Mão (1783), đời Vua Lê Hiển Tông
3 - Cụ Nguyễn Bá Khiêm, đỗ Cử nhân năm thứ 5 triều Tự Đức (1852). Cụ từng làm Tri huỵện huyện Phủ Cừ một vài năm, rồi cáo quan, về quê sống một cuộc đời thanh bạch. Cụ để lại đôi câu đối răn dạy con cháu:
- Tầm thường khoa hoạn khai môn hộ
- Thanh bạch, phong thanh dụy tử tôn
Tạm dịch là:
- Đỗ Cử nhân ra làm quan cũng là việc bình thường thôi, nhưng là người mở đầu cho việc học hành của gia tộc
- Sự trong trắng là tài sản, tiếng thơm cụ để lại cho con cháu
4- Cụ Ngô Quý Doãn (1877-1956) đỗ Cử nhân năm Thành Thái thứ 13 (1900). Cụ đã qua trường Hậu bổ, những không ra làm quan, mà ở nhà dạy học và từng tham gia phong trào Văn thân chống Pháp. Là người đạo cao, đức trọng, kiến thức uyên thâm, cụ mở trường dạy học ở quê nhà tới gần nửa thế kỷ. Nhiều gia đình đời cha theo học, sang đời con cũng theo học cụ. Chữ của cụ còn để lại trên nhiều hoành phi, câu đối ở đình, chùa, nghè Lại Đà và nhiều đình, miếu khác trong vùng. Tiếc rằng tác phẩm thơ, phú của cụ đã bị thất lạc, nay chỉ còn tập tập "Đối liên lu bút tích tại bản thôn", ghi chép lại các câu đối ở đình, chùa, miếu, nghè Lại Đà. Cụ là người có công trong việc cải lương hương tục. Trong nhiều năm làm Tiên chỉ, cụ đã loại bỏ một số hủ tục, góp phần xây dựng làng Lại Đà tiến hoá, văn minh hơn. Cụ rất ghét những tên hào lý đục khoét dân, xin kể ra câu chuyện Tổng Noi:
Chánh tổng Noi bị chết đuối, trôi qua một bến đò ở gần làng ta. Dân làng giáp bến đò kia làm phúc vớt lên, chôn cất. Do chết bất đắc kỳ tử, nên người ta đồn, Tổng Noi rất thiêng, dân ở đó xây miếu thờ. Miếu nằm ẩn mình dưới bóng cây cổ thụ và nằm phía sau 3 ngôi đền Thượng, Trung, Hạ. Do nơi đây cây cao bóng mát, người đi cắt cỏ, làm đồng về, thường hay ngồi nghỉ. Thế rồi xuất hiện tin đồn, có người bị Tổng Noi vật, phải đến cầu xin mới khỏi. Xây miếu xong, dân địa phương vào xin cụ Cử Doãn câu đối thờ, cụ cho như sau:
Lâm giang cổ miếu tam linh hạ
Táp thụ hùng phong thập lý lai
Và 3 chữ đại tự : "Kim vị liệt"
Tạm dịch là:
- Ngôi miếu bên bến đò đứng dưới 3 ngôi đền Thành Hoàng - miếu đứng sau bét.
- Xưng hùng, xưng bá ở quanh mấy gốc cây cổ thụ (ý chê Tổng Noi nhỏ nhen, còn một ý nữa cụ là hàng trên, Tổng Noi chỉ là Chánh tổng. Từ đó đền hết thiêng.
Đỗ tú tài:
1 - Cụ Ngô Duy Phác, đỗ thời Hâu Lê.
2 - Cụ Lương Lệnh, đỗ Tam trường, khoa Giáp Ngọ thời Hậu Lê.
3 - Cụ Lương Hồng Lê, đỗ Tứ trường, năm Kỷ Dậu, thời Hậu Lê.
4 - Cụ Ngô Quý Định (1791 -1825), đỗ Tú tài năm Quý Dậu (1813). Khoa thi hương này, cả nước có 82 người đỗ Cử nhân; còn tại trường thi Thăng Long có 16 người đỗ Cử nhân.
5 - Cụ Ngô Bá Thiệm (Bối Hiên), đỗ năm 1852
6 - Cụ Nguyễn Bá Đảng, đỗ thời Nguyễn, triều Tự Đức (không rõ đỗ năm nào).
Ngoài đội ngũ nho học đỗ đạt, ra làm quan, còn rất nhiều người học vấn uyên thâm, nhưng lận đận trong khoa cử. Theo quan niệm trước đây "tiến vi quan, đạt vi sư", người có học vị cao thì xuất chính, còn không đỗ đạt, thì làm thầy: nho, y, tướng, số, những nghề nghiệp đợc thời xưa trọng vọng. Những thầy thuốc nổi tiếng ở làng còn truyền lại, như các cụ tổ họ Ngô Quý. Cụ Ngô Quý Vọng là người khởi nghiệp nghề y của họ Ngô Quý, làm thuốc nổi tiếng tổng Cói. Dòng họ Ngô Quý còn rất nhiều người hành nghề y nổi tiếng, như cụ Ngô Quý Ôn, từng chữa trị cho quan xứ Tuyên Quang. Cụ Tương Dũng, cũng nổi tiếng nghề thuốc trong vùng. Hiện con cháu cụ còn giữ câu đối thờ:
- Xa mã tiền trình, tứ thập dư niên công tại quốc
- Công hầu cố lý, lục tuần linh thất thọ vu gia.
Song đông đảo nhất vẫn là các thầy đồ. Nhiều làng vì muốn có chữ cho con cháu, đã đón thầy về làng dạy học. Từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1945, ở làng có tới 4 lớp Hán học. Các lớp đều đặt ở nhà thầy. Theo học, học sinh không phải đóng học phí, có chăng là quà cáp biếu thầy vào các ngày lễ tết, hay dịp nhà thầy có việc. Thí dụ tết Nguyên Đán, thì mang tiền đến tết thầy; tết tháng 5 thì biếu ngỗng; tết trung thu thì biếu hồng và cốm. Khi thầy mất, học trò phải chở thầy. Hàng năm giỗ thầy, do Hội đồng môn tổ chức. Vì vậy mới có câu: Sống tết, chết giỗ. Trước cách mạng Tháng 8 ở làng có 4 hội đồng môn. Mấy năm gần đây, nhiều học trò cũ vẫn đến giỗ thầy Ngô Quý Doãn, Trịnh Xuân Thâm, Nguyễn Hữu Quý, Ngô Duy Chí.
Học chữ Quốc ngữ
Để từng bước thay thế dân lớp quan lại Hán học bằng lớp quan lại Tây học, chính quyền thực dân đã mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Vì vậy ở Bắc kỳ, kỳ thi Hán học năm 1915 và Trung kỳ, năm 1918, bị bãi bỏ. Thay vào đó là hệ thống trường học do Nhà nước bảo hộ. Ở Bắc và Trung kỳ, các bậc tiểu học và trung học được ấn định như sau:
a - Ấu học: Bậc này do các xã, thôn lập, trước đó gọi là hương trường hay sơ học. Chương trình học gồm các lớp như sau: lớp đồng ấu hay lớp 5; lớp dự bị hay lớp tú; lớp sơ đẳng hay lớp ba. Cuối lớp ba, học sinh thi lấy bằng Yếu lược (Sơ học yếu lược).
b- Tiểu học: Học sinh học lớp nhì năm thứ nhất, lớp nhì năm thứ hai và tiếp đó là lớp nhất. Học sinh học hết lớp nhất thi lấy bằng Sơ đẳng tiểu học hay Sơ học Pháp - Việt.
c- Trung học gồm 2 cấp: Cao đẳng tiểu học và Tú tài. Cao đẳng tiểu học còn gọi là trung học đệ nhất cấp, chương trình học bốn năm, cuối năm thứ tư thi lấy bằng Diplôme, nếu tiếp tục học bốn năm nữa sẽ thi lấy bằng tú tài.
Mặc dù bãi bỏ kỳ thi Hán học ở Bắc kỳ vào năm 1915 và các trường học dạy chữ Quốc ngữ được mở ra, nhưng việc triển khai rất chậm chạp. Vào năm 1927, Cụ Nguyễn Bá Đảng mở một lớp dạy chữ Quốc ngữ ở làng. Chương trình dạy thế nào, đến nay không biết rõ nữa. Ngoài ra, làng còn có lớp dạy chữ Nho, kiêm dạy chữ Quốc ngữ, do cụ Cử Doãn dạy.
Những năm 1930 -1931, cả tổng Hội Phụ (gồm Mai Lâm, Đông Hội ngày nay) mới có một trường ấu học, đặt ở làng Lê Xá và chỉ có khoảng 30 học sinh, do một thầy giáo dạy ghép 3 lớp.
Khoảng năm 1934-1935 Lại Đà mới có trường ấu học (tương đương từ lớp 1 đến lớp 3 ngày nay). Người dạy đầu tiên là thầy Phạm Quang Chiểu, người xã Tam Tảo, huyện Yên Phong; kế tiếp đó là các thầy Ngô Bá Thu, người Lại Đà; rồi thầy ích, thầy Chi, người Đình Bảng. Trường học hồi đó có khoảng 40 học sinh, học các lớp 5, 4 và 3. Học sinh chủ yếu là người Lại Đà, ngoài ra còn ở Đông Ngàn, Đông Trù, Xuân Trạch,... Những học sinh người làng ta học trường này rồi theo cách mạng, như Ngô Qúy Cư, Ngô Thiệu Lễ, Vương Khắc Quy, v.v... Vào đầu thập niên bốn mơi của thế kỷ trước, trường hoạt động khá tốt. Có lần quan Huấn đạo về kiểm tra nhà trường, do giảng dạy tốt, học sinh đỗ cao, thầy Phạm Quang Chiểu được khen ngợi. Do ảnh hưởng của Đại chiến thế giới II, tình hình trong nước cũng có nhiều biến động, học sinh giảm dần. Rồi Nhật hất cẳng Pháp vào tháng 3/1945, trường học đã bị giải thể. Như vậy, trường ấu học Lại Đà tồn tại được khoảng 10 năm.
Nhờ Lại Đà có trường dạy chữ Quốc ngữ sớm, nên so với nhiều nơi khác, số người biết chữ Quốc ngữ ở làng là tương đối cao. Nhiều phụ nữ con nhà khá giả cũng có bằng Sơ học yếu lược, như bà Bỉnh, bà Nhặt, v, v. Một trong những người có bằng Sơ học yếu lợc lớp đầu tiên tại làng là cụ Ngô Thiệu Nhâm (năm 2004 cụ ở tuổi 85). Về đỗ đạt, có bằng Tú tài và Cử nhân Tây học sớm nhất ở làng là các cụ Nguyễn Phú Phương, Nguyễn Bá Bảo (đỗ tú tài), Nguyễn Bá Huấn (đỗ cử nhân). Cụ Nguyễn Bá Bảo đậu Tú tài tại trường "Bưởi" năm 1942. Là hậu duệ đời thứ ba của Cử nhân Nguyễn Bá Khiêm, cụ Tú Bảo tham gia cách mạng từ đầu năm 1945, vào Đảng năm 1949, năm 1978 đến 1982 là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại AUSTRALIA và NEW ZEALAND.
Chiến dịch diệt dốt: Tuy làng ta có trường học chữ Quốc ngữ tương đối sớm, song tỷ lệ người được đi học so với số dân thì rất thấp. Ngay sau cách mạng tháng 8, mặc dù tình hình hết sức khó khăn, nạn đói còn đe doạ và trận lụt do vỡ đê sông Hồng, nhưng dân làng vẫn tích cực tham gia phong trào diệt giặc dốt. Lớp học mở ở nhiều nơi: ở đình, ở điếm, ở tư gia. Xóm làng rộn ràng tiếng đánh vần o...a. Thầy giáo là những người trong làng, với tinh thần, người biết chữ dạy người cha biết chữ, người biết nhiều dạy người biết ít. Lớp học cũng đủ hình, đủ dạng: có lớp chỉ có năm, ba người; có lớp cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi học bên đứa trẻ mái đầu còn xanh. Người đi học cũng rất say mê, học mọi lúc, mọi nơi, học trong lúc giã gạo, học trong lúc đun bếp, học trong lúc chăn trâu. Để động viên phong trào, nhiều khẩu hiệu viết bằng vôi lên các bờ tờng:
"Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò"
Hay: "O a hai chữ khác nhau
Vì a có nối móc câu bên mình."
Nhờ phong trào diệt dốt, chỉ sau 6 tháng, hàng trăm người đã thoát nạn mù chữ. Tiếc rằng phong trào diễn ra chưa được bao lâu, thì chiến tranh nổ ra. Trong thời kỳ "tạm chiếm", vào năm 1951-1954, nhờ có hương sư Ngô Quý Cầm mở lớp học tư gia, nên một số trẻ ở Lại Đà được theo học. Chương trình do thầy Cầm tự soạn, dựa trên tài liệu thời Pháp thuộc. Học sinh học các môn: tập viết, ám tả và 4 phép tính (cộng, trừ, nhân, chia). Nhờ vậy một số em thoát khoải cảnh mù chữ.
Sau hoà bình năm 1954, phong trào Xoá nạn mù chữ và Bình dân học vụ lại diễn ra sôi nổi. Lại Đà được huyện Từ Sơn công nhận là làng có phong trào xoá nạn mù chữ xuất sắc. Một số người trong ban Bình dân học vụ được công nhận là chiến sỹ diệt dốt, như cụ Nguyễn Văn Tường, cụ Vương Khắc Đễ,...
Đầu năm 1955 trường phổ thông cấp I Đông Hội được thành lập, khóa học 1956-1957 trường đã có đủ từ khối 1 đến khối 4. Đến năm học 1961-1962, trờng phổ thông cấp II Đông Hội chính thức được thành lập.
Phong trào học tập ngày nay: Trẻ em đến tuổi đa số đã đến nhà mẫu giáo. Nhà mẫu giáo thôn được xây dựng vào năm 1987-1988. 100% trẻ từ 6 tuổi đều đến học lớp 1 tại trường tiểu học của xã; tiếp đó học THCS; rồi lên tiếp trường THPT của huỵện. Hiện nay số trẻ đến trường tính từ mẫu giáo đến các cấp phổ thông có khoảng gần 600 em.
Tính đến năm 2003 số con em Lại Đà tốt nghiệp từ Đại học trở lên, tới hàng 100 người và một số người đang là nghiên cứu sinh hoặc theo học cao học. Đặc biệt Làng hiện có 6 Giáo sư, Tiến sỹ:
+ GS.TS Nguyễn Bá Hào (1932-2001): Là hậu duệ đời thứ tư của Cử nhân Nguyễn Bá Khiêm. Tốt nghiệp đại học khoa học tự nhiên Hà Nội 1954; bảo vệ thành công luận án Tiến Sỹ tin học năm 1964 tại MAXCƠVA, từng là Giáo sư. TS giảng dạy tại trường đại học Bách khoa, Tổng hợp Hà Nội; tiếp đó làm chuyên gia tại ALGERIA rồi giảng dạy tại trường đại học Kỹ thuật thuộc Cộng hoà Pháp. Cụ là vị Giáo sư. TS đầu tiên của làng.
+ GS.TS Nguyễn Phú Trọng: Sinh 14/4/1944. Từ năm 1963-1967 học Khoa Ngữ Văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội; bảo vệ PTS tại Liên xô 1983; được công nhận là Giáo sư năm 2002; Uỷ viên Ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản VN và Tổng biên tập tạp chí Cộng Sản năm 1991; hiện nay là Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
+ PGS.TS Nguyễn Thị Lẫm: Sinh 18/4/1948. Tốt nghiệp đại học Nông nghiệp năm 1969; bảo vệ luận án Tiến sỹ tại Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp năm 1994; được công nhận là Phó giáo sư năm 2003; hiện là Phó trưởng khoa Khoa Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, trường đại học Nông lâm Thái Nguyên. Đây là vị nữ Phó giáo sư.TS đầu tiên của làng.
+ Tiến sỹ Ngô Duy Ngọ: Sinh 1954. Bảo vệ luận án Tiến sỹ Kinh tế tại Vương quốc Bỉ, hiện công tác tại Đại sứ quán UKRAINE.
+ Tiến sỹ Ngô Trọng Mại: Sinh 17/9/1955. Tốt nghiệp đại học Bách khoa năm 1978; phong Thượng tá quân đội nhân dân VN năm 2001; bảo vệ luận án Tiến sỹ toán học năm 2003.
+ Tiến sỹ Lương Minh Việt: Sinh 1958. Tốt nghiệp đại học Bách khoa 1987; bảo vệ luận án Tiến sỹ kinh tế năm 1993; hiện là giảng viên Học viện Hành chính quốc gia, Bộ Nội vụ.
Để khuyến khích phong trào hiếu học, trong Quy ước làng văn hoá xây dựng năm 1998 có điều quy định: Hàng năm vào dịp tết Nguyên đán, để động viên, khen thưởng các cháu, làng tổ chức buổi gặp mặt các học sinh giỏi cấp phổ thông và sinh viên tiên tiến. Làng có quỹ khuyến học, hàng năm tổ chức phát phần thưởng cho các học sinh giỏi các cấp học vào dịp 2-9. Một số họ trong làng có quỹ khuyến học để khuyến khích các cháu chăm chỉ học hành.
Những nhà giáo ở Lại Đà
Theo quan niệm trước đây "tiến vi quan, đạt vi sư", người có học vị cao thì xuất chính, còn không đỗ đạt, thì làm thầy nho, y, tướng, số. Làng ta được nhiều vùng biết tới cũng là do có các vị đồ nho danh tiếng. Nhiều làng vì muốn con có chữ, phải đón thầy nơi khác về dạy học, riêng Lại Đà thì không phải mời thày nơi khác đến. Xa xưa thì không còn rõ nữa, nhưng vào thời hậu Lê, có cụ Ngô Quý Ôn (1785-1865) văn hay chữ đẹp, được "Thượng ti" khen ngợi. Cụ Ngô Quý Dự (1810-1887) tham gia Học Hải Hội của thôn, cụ còn có tác phẩm: "Thuận Hiên di tập". Vào thời Tự Đức, có cụ Ngô Bá Thiệm, đỗ Tú tài, về mở trường dạy học ở quê, học trò theo học rất đông. Tiếp đến con cháu cụ cũng giữ được nghiệp nhà. Hay như họ Lương, các cụ mở trường dạy học. Hiện con cháu còn giữ được nhiều hoành phi, câu đối do học trò cúng viếng. Nơi các cụ dạy học, những làng ven sông Đuống, dân ở đây vẫn còn nhắc tới các cụ. Họ Nguyễn Phú có cụ đồ Liễn, là một bậc túc nho uyên thâm, tiếc rằng khoa trường lận đận, 7 lần lều chõng cũng chỉ đến tam trường. Cụ làm nghề y, số, địa lý, kiêm nghề dạy học. Vùng Đồng Kỵ, nhiều người còn biết tiếng cụ hay chữ. Tiên sinh Ngô Quý Lương (1856-1927) là thầy đồ được nhiều học sinh theo học. Vào những năm 20 và 30 của thế kỷ XX có những thầy đồ có tiếng như: Ngô Bá Nhượng, Trịnh Xuân Thâm, Nguyễn Hữu Quý, Ngô Duy Chí (Chắt Chí),... Một trong những nhà giáo không thể không nhắc tới, đó là Cử nhân Ngô Quý Doãn, cụ mở trường dạy học ở làng tới gần nửa thế kỷ (Thân phụ của cụ là tiên sinh Ngô Quý Lương). Cụ Cử Doãn dạy chữ Nho và kiêm cả chữ quốc ngữ.
Sang thế hệ các nhà giáo dạy chữ quốc ngữ: Vào năm 1927, Cụ Nguyễn Bá Đảng mở một lớp dạy Quốc ngữ ở làng. Đến năm 1934 -1935 Lại Đà có trường ấu học, có các thầy Ngô Bá Thu;... Ngoài dạy tại làng, nhiều thầy giáo người Lại Đà còn đi dạy ở các nơi khác, như các cụ: Nguyễn Bá Ngạn (dạy ở Phú Thọ), Nguyễn Bá Hân (dạy ở Nam định và Hà Nội), Nguyễn Phú Lan (dạy ở Nam định), Trịnh Xuân Uyển (dạy ở Du Lâm, Mai Lâm). Sau cách mạng Tháng 8 có cụ Tú Bảo, cụ Cử Huấn (cụ Cử Huấn và cụ Đặng Thai Mai được cử phụ trách trường Phan Chu Trinh, trường trung học quốc lập đầu tiên của Hà Nội dưới chế độ mới).
Những năm 1951-1954, ở làng có hương sư Ngô Quý Cầm, mở lớp học tư gia. Một số năm sau hoà bình năm 1954 là GS. TS Nguyễn Bá Hào, dạy tại trường đại học Bách Khoa và đại học Tổng Hợp HN; thầy Nguyễn Phú Sơn, dạy tại Thạch Thất năm 1957, từ 1958 -1962 dạy ở Tuyên Quang, từ 1965- 1984 là hiệu trưởng trường cấp II Đông Hội. Đầu thập niên 60 có các thầy: Nguyễn Xuân Hỷ, Vương Khắc Côn. Thế hệ kế tiếp là các thầy: Ngô Bá Dục, Vương Hữu Hinh, Ngô Thiệu A, Nguyễn Văn Âu, Ngô Quý Lệ (thầy Dục hiện là Hiệu trưởng trường PTTH Cổ Loa, thầy Ngô Văn Âu hiện là Hiệu trưởng trường PTCS Đông Hội). Tiếp đó là các thầy cô: Vương Thị Thái, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Phú Nam,... (thầy Nguyễn Phú Nam từng là Hiệu trưởng trường PTCS Đông Hội, huyện uỷ viên huyện Đông Anh).
Cho tới nay, đội ngũ các nhà giáo người Lại Đà lên tới bốn, năm chục người. Các thầy cô dạy ở làng, dạy tại các vùng quê khác, dạy ở trường phổ thông, dạy đại học.
Ngoài những đóng góp trong sự nghiệp "trồng người", thì không thể không nhắc tới sự đóng góp và cả sự hy sinh của nhiều thầy cô giáo người Lại Đà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thầy Nguyễn Phú Nghị là nhà giáo đầu tiên lên đường nhập ngũ. Thấy đã chiến đấu và anh dũng hy sinh ở chiến trường miền Nam. Rồi các thầy cô: Nguyễn Văn Âu, Nguyễn Thị Tâm, Vương Khắc Côn, Nguyễn Phú Nam đã tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Năm 1972 để chi viện cho giáo dục vùng giải phóng, nhiều thầy cô đã lên đường, như Ngô Thị Dần, Nguyễn Xuân Hỷ, Vương Hữu Hinh, Vương Thị Hiền.
Cưới xin
Xưa, việc kết hôn nam nữ, dựng vợ gả chồng cho con cái, luôn là việc hệ trọng. Vì vậy mới có câu: "Hôn nhân đại sự". Ngày xa tuổi lấy vợ, lấy chồng, thì gái thập tam, nam thập lục, tức là gái 13 tuổi, trai 16 tuổi là cái tuổi đã lấy được nhau. Việc gả bán con cái hoàn toàn do cha mẹ quyết định, cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đấy.
Việc cưới gả, thì môn đăng hộ đối, luôn được hai gia đình xem trọng. Sau khi đã xem xét mọi mặt, đặc biệt là tuổi tác của đôi trẻ có hợp nhau không, nhà trai sẽ nhờ bà mối (hoặc ông mối) sang nhà gái đánh tiếng, rồi bà mối tổ chức cho nhà trai sang nhà gái xem mặt. Đó là tục vấn danh (so tên tuổi)
- Lễ chạm ngõ: Dù giàu, nghèo, lễ chạm ngõ đều phải tuân thủ lễ tiết, phải chọn ngày tốt. Từ sáng sớm, nhà trai sắm một lễ để cáo với tổ tiên, sau đó sửa lễ sang nhà gái, tối thiểu cũng là cơi trầu têm độ chục miếng, nhà giầu thì cả buồng cau, mứt sen, trà lạng. Bà mối hay ông mối dẫn bà cô, ông cậu của chàng trai đến nhà gái. Sau ngày chạm ngõ, chú rễ phải thường xuyên đi lại, thăm hỏi gia đình nhà gái. Nhà trai phải sêu tết nhà gái vào các dịp lễ, tết, các ngày giỗ chạp, các công việc hệ trọng của nhà gái. Ngày giỗ thì lá trầu, quả cau, chai rượi; tết Đoan ngọ thì cặp ngỗng; tết trung thu thì hồng cốm; vào mùa cơm mới là đôi cá trắm, cá chép. Thông thường chàng trai phải đi về nhà cô gái độ đôi ba năm.
- Lễ xin cưới: Sau vài ba năm suôn sẻ, nhà trai mượn người xem tuổi cô gái đã được tuổi cới cha. Thường cô gái vào tuổi chẵn là cưới được:14, 16, 18. Trước ngày cưới độ một tháng, bà mối sang xem nhà gái cần gì, gọi là thách cưới. Nhà nghèo thì đơn giản: ba lễ mặn, mỗi lễ là một con gà, đĩa xôi, kèm theo trầu, rượu. Nhà có thế lực, có "máu mặt", thì thách to, nào khuyên vàng, xà tích, chăn bông, quần áo mấy bộ cho cô dâu, tiền mặt. Sau khi giá cả đã nhất trí, nhà gái hẹn ngày "nạp thái giao ngân", nhà trai phải dẫn đủ lễ nghi như nhà gái đã thách. Nếu còn thiếu gì, nhà trai khất đến ngày đón dâu.
Sáng sớm nhà trai làm lễ cáo với tổ tiên mình, rồi mang lễ sang nhà gái. Lễ dẫn cau trầu đi trước, tiếp đó nhà nghèo thì xôi gà, nhà giầu thì lợn quay, xôi cả mâm, khiêng, đội theo. Đây là lần đầu tiên bà mẹ chồng và bà mẹ vợ trực tiếp gặp gỡ, trao nhận. Thường thì mọi việc diễn ra suôn sẻ, nhưng có trường hợp nhà trai không nạp đủ đồ sính lễ, bà mẹ vợ cương quyết không nhận, có khi phải hoãn cả đám cưới. Lúc này vai trò của bà mối rất quan trọng.
- Lễ nghênh hôn (đón dâu): Nhà trai phải kén người đàn ông cao tuổi trong gia tộc, song toàn, con cái đề huề, sẽ làm người đón dâu - còn gọi ông cầm hương. Đoàn đón dâu sẽ do ông cầm hương dẫn đầu. Đến nơi, chú rể phải làm lễ tổ tiên nhà gái, rồi cô dâu, chú rể lạy bố mẹ vợ bốn lạy, ba vái. Từ lúc này bố mẹ vợ chính thức gọi chàng rễ là con. Bố mẹ vợ cho con gái của hồi môn, hoặc dặn dò đôi vợ chồng trẻ. Trong khi đó thì khách khứa ăn trầu, uống nước, hoặc dùng cỗ. Rồi một chàng trai đốt mấy nén hương hay cả bó hương, đa cho ông cầm hương, ông sẽ nói đôi lời xin phép đa dâu về nhà chồng.
Xa ở làng ta, vào lúc đa dâu, có việc trẻ nhỏ hay ai đó đóng cửa ngõ hay chăng dây. Sau làng có quy định, ngày nghênh hôn, cấm không ai được chăng dây, đóng cổng, ngăn chở việc nghênh hôn. Nếu ai phạm, dù là trẻ con, làng cũng bắt phạt.
Khi đến nhà trai, cô dâu, chú rể phải làm lễ tơ hồng, cầu khấn ông tơ bà nguyệt xe duyên cho đôi lứa hạnh phúc. Sau đó làm lễ gia tiên, rồi lễ ra mắt bố mẹ chồng. Buồng cưới được trang trí đẹp đẽ, chiếu gấp ở đầu giường, ông cầm hương trải chiếu ra giường sao cho thật ngay ngắn, phẳng phiu. Vốn là người con đàn cháu đống, người trải chiếu sẽ để phúc cho đôi trẻ mắn con.
Cỗ bàn tuỳ theo gia cảnh, nhà nghèo thì năm, mời mâm, mời họ hàng; nhà giàu thì dăm bảy chục mâm, đến vài trăm mâm, mời khách khứa ăn uống vài ba ngày, có nhà cấm lửa cả làng, tất cả dân làng được mời đến ăn cỗ.
Sau lễ nghênh hôn là lễ nhị hỷ (lại mặt). Ngày hôm sau, cô dâu xin phép nhà chồng được về nhà mình. Xin nói thêm, từ giờ phút này, cô dâu đi đâu khỏi nhà, nhất nhất phải xin phép bố mẹ chồng. Lễ lại mặt đối với người con gái vô cùng hệ trọng, nó xác định sự thành danh của người con gái trước xã hội. Lễ lại mặt, cô dâu và chú rể cùng đi, có người nhà mang lễ theo. Lễ có mâm xôi, thủ lợn, trầu rượu, trong đó thủ lợn là lễ vật quan trọng nhất. Theo quy ước, nếu thủ lợn còn nguyên tai, chứng tỏ trước đêm tân hôn, cô dâu còn trinh trắng; nếu thủ lợn bị cắt tai, chứng tỏ cô dâu tiết hạnh đã không còn. Nhà trai có thể trả cô dâu về cho nhà gái, thậm chí bắt bồi thường tổn phí việc cưới xin. Ấy là tục lệ đề ra, chứ ít khi xảy ra chuyện ấy.
Ngày nhị hỷ, bố mẹ vợ đưa chú rể ra đình lễ hương, rồi về nhà từ đường làm lễ tổ.
Tục lệ làng ta, thì việc giá thú là quan trọng. Trước khi cưới phải trình làng. Làng xem xét thấy đúng, mới được làm lễ giá thú. Sau đó cũng phải có chứng nhận đã nộp cheo, rồi mới được làm lễ nghênh hôn. Tiền cheo có 2 hạng:
1- Cheo nội là con giai làng lấy con gái làng. Lệ cau 50 quả, rượu 1 chai (lễ chín tuỳ nghi) và tiền cheo 2 đồng bạc.
2 - Cheo ngoại là con gái làng lấy chồng làng khác. Lễ cau 100 quả, lễ chín tuỳ nghi, tiền cheo 5 đồng bạc.
Vào những năm từ 1930 đến 1935, dịp ấy làng lát gạch đường làng, nên tiền cheo đổi thành nộp gạch. Cheo nội nộp 300 viên, còn cheo ngoại nộp 600 viên. Khi làm lễ cheo, phải mời cụ từ và thủ quỹ ra nhận tiền cheo.
Cưới xin ngày nay trong Quy ước làng văn hoá quy định: Năm nữ kết hôn phải đúng tuổi, nam 20 nữ, nữ 18, tuyệt đối cấm tảo hôn, đa thê. Phải đăng ký kết hôn và dự lễ nhận giấy kết hôn tại UBND xã. Việc lo tổ chức ngày kết hôn là do hai gia đình thoả thuận, cần tổ chức giản dị, trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm, có văn hoá. Tổ chức liên hoan có thể là tiệc trà, tiệc mặn theo tinh thần tiết kiệm, theo quy mô thích hợp với hoàn cảnh gia đình, tránh hình thức phô trương lãng phí, đảm bảo an toàn về mọi mặt sức khoẻ, an ninh và nên làm trong 1 ngày, không dùng thuốc lá.