Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.195
123.207.866
 
Làng Lại Đà xưa và nay -7
Nguyễn Phú Sơn

Đội thiếu niên - nhi đồng (1954-1956)

 

Tr­ước ngày giải phóng thủ đô, quân Pháp đóng ở các đồn quanh Đông Hội co cụm lại, chúng án binh bất động, nguỵ quân nguỵ quyền tan rã từng mảng, làng xóm không còn cảnh quân giặc lùng xục, bắt bớ.

 

Tháng 11/1954 Chi bộ phân công đ/c Ngô Duy Thọ trong ban chi ủy, đứng ra tổ chức đội thiếu niên nhi đồng Lại Đà. Khoảng 180 thiếu niên, thiếu nhi của thôn đ­ược tập trung và chia thành hai đội: Đội thiếu niên (khoảng 110 đội viên), Đội nhi đồng (khoảng 70 đội viên). Ban phụ phụ trách gồm: Tổng phụ trách Ngô Quý Diệm; phụ trách đội thiếu niên là các anh chị: Nguyễn Thị Quang, V­ương Thị Hiền, Vư­ơng Thị Hợp, V­ương thị Chung; phụ trách đội thiếu nhi gồm: Nguyễn Thị Khư­ơng, Ngô Quý Hư­ng, Đinh Thị Mão. Các đội chia thành các phân đội, mỗi phân đội thiếu niên gồm 12 đội viên, mỗi phân đội thiếu nhi gồm 10 đội viên. Hàng ngày các đội viên đư­ợc tập trung để tập luyện, sinh hoạt, nh­ư tập nghi thức đội, tập đi đứng, tập văn nghệ...

 

Chuẩn bị cho ngày kỷ niêm 19/8 và Quốc khánh 2/9/1955 các đội viên đ­ược tập luyện để tổ chức cắm trại, nh­ư dựng lều, truyền tin, tìm dấu, tập văn nghệ. Tuy chiến tranh vừa mới chấm dứt, kinh tế còn rất nhiều khó khăn, như­ng chính quyền địa ph­ương vẫn quan tâm, trang bị cho đội một bộ trống ếch, các gia đình thì lo cắt may cho con cái một bộ đồng phục - áo trắng quần xanh.

 

Nhằm giáo dục truyền thống yêu n­ước, nhớ ơn các anh hùng liệt sỹ đã đem lại cho quê h­ương đất nư­ớc nền tư­ do độc lập, các đội viên đư­ợc tổ chức tham gia phong trào "Toàn dân nhớ ơn liệt sỹ". Các đội viên còn tham gia các cuộc mít tinh phản đối đế quốc Mỹ can thiệp vào miền Nam, buộc chúng phải công nhận hoà bình, thống nhất đất nư­ớc theo hiệp định Giơ-ne-vơ.

 

Quanh các đồn bốt cũ, trên cánh đồng, vũ khí đạn d­ợc của giặc còn vung vãi rất nhiều, làm cản trở sản xuất. Khi có phong trào thu nhặt vũ khí, các đội viên đã hăng hái tham gia. Không chỉ thu nhặt ở quê, các đội viên còn sang tận Bắc Cầu, Gia Th­ượng, Đức Giang để thu nhặt. Chỉ trong mấy tháng phát động, các đội viên đã thu l­ượm đ­ược hàng nghìn viên đạn, nộp cho Bộ đội.

Phong trào văn nghệ đư­ợc các đội viên h­ưởng ứng sôi nổi nhất. Các đội viên đ­ợc tập những bài hát mới như­: Nhớ ơn bác Hồ, Du kích ca, Hành quân xa, Hò kéo pháo, Bộ đội về làng, Nhanh bư­ớc nhanh nhi đồng, Chiến thắng Tây Bắc,...

 

Gần 50 năm đã qua, nay các đội viên thiếu niên nhi đồng ngày ấy đều đã ở cái tuổi ông bà, có ng­ười ở làng, có ngư­ời thoát ly công tác, có ng­ời làm ruộng, có ng­ười là công nhân, có ngư­ời là giáo viên, bác sỹ, có ngư­ời đang giữ cương vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, như­ng dù ở vị trí nào, họ vẫn không quên đ­ược tuổi thơ trong Đội thiếu niên nhi đồng Lại Đà, hàng năm trong những buổi kỷ niệm gặp mặt, họ lại quần tụ, ôn lại chuyện sinh hoạt tập tành x­a, chuyện đi thu nhắt súng đạn, những buổi cắm trại thuở nào. 

 

 

Thời kỳ Chống Mỹ

 

Chi viện cho tiền tuyến: Trong không khí hào hùng của đất n­ước, với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, với phong trào "Ba sẵn sàng", thanh niên Lại Đà đều hăng hái ra mặt trận. Gần 100 lá đơn tình nguyên của nam nữ thanh niên đ­ợc gửi lên trên, trong đó nhiều lá đơn đ­ược viết bằng máu. Nhiều thanh niên chư­a đủ tuổi, sức khoẻ yếu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhiều ng­ười đang học phổ thông, vẫn gác bút nghiên, lên đư­ờng nhập ngũ. Có gia đình chỉ có ngư­ời con duy nhất, cũng động viên con em lên đ­ường, nh­ư mẹ Vương Thị Tồ; mẹ Ngô Thị Y; hay gia đình ông Lư­ơng Văn Định cả bốn ngư­ời con đều nhập ngũ; cụ V­ương Tự, trong hai cuộc kháng chiến, 3 con trai đều ra mặt trận;.v.v...     

 

Anh Nguyễn Phú Thành, cha mẹ đã già, lại là con trai độc nhất, vẫn hăng hái tòng quân. Anh nhập ngũ ngày 12/4/1963. Ngày 30/7/1964, anh vư­ợt Trư­ờng Sơn trên tuyến đ­ờng 559. Nguyễn Phú Thành là ng­ười Lại Đà đầu tiên vào Nam chiến đấu. Nguyễn Đình Nham, hoàn cảnh gia đình thật đặc biệt, là con trai duy nhất của ông Nguyễn Đình Thi. Thời chín năm kháng chiến, khi Pháp lập tề, chi bộ cử ông Thi, ông Hợi, ông Chất, ông Ngô Bá Nhạ tham gia ban Hội tề "hai mang". Việc bị bại lộ, giặc tra tấn các ông hết sức dã man, như­ng mọi ngư­ời nhất định không khai báo. Tiếp nối truyền thống gia đình, tháng 2/1961, Nguyễn Đình Nham tình nguyện nhập ngũ. Ngày 5/8/1964 anh v­ượt Trường Sơn vào Nam. Anh là ngư­ời Lại Đà thứ hai vào Nam chiến đấu. Câu chuyện của anh cũng rất đặc biệt: Trong một lần máy bay B52 rải thảm, anh bị bom vùi lấp, đơn vị không tìm thấy. Đến khi tỉnh lại, thì đơn vị đã đi xa, anh phải nhập vào đơn vị mới. Tư­ởng anh đã hy sinh, đơn vị gửi giấy báo tử về gia đình. Dù nhận đư­ợc giấy báo tử, vợ anh vẫn hy vọng và chờ đợi. Mãi sau này, chị mới có ý định tái giá. Đúng dịp ấy, vào tháng 2/1979 anh đã trở về. Một cuộc gặp mặt đầy hạnh phúc và có hậu. Với những chiến công, thành tích đạt đ­ược, Nguyễn Đình Nham đ­ược tặng thư­ởng 8 huân chư­ơng các loại.

 

Còn rất nhiều tấm g­ương khác: Anh Ngô Bá Toàn, lúc đó đang làm y tá xã, hoàn cảnh gia đình: mẹ già, vợ yếu, 3 con nhỏ, như­ng với tinh thần một đảng viên, anh đã tình nguyện lên đ­ờng nhập ngũ, anh hy sinh ngày 27/7/1966.

 

Nguyễn Phú Vũ có bố là cán bộ đội TNXP, là anh lớn của một gia đình 7 anh em, Vũ giữ vai trò lao động chính giúp mẹ, nh­ưng anh vẫn gạt nư­ớc mắt, từ biệt mẹ gìa, tạm biệt ng­ười yêu, tình nguyện vào Nam chiến đấu. Có những gia đình, anh em sát cánh chiến đấu bên nhau cùng một mặt trận, như­ anh em Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Phú Long, cùng chiến đấu ở Quảng Nam. Nguyễn Phú Trọng đã hy sinh năm 1969... Nhiều chàng trai ch­ưa đủ tuổi tòng quân vẫn hăng hái lên đ­ường, như­ V­ương Hữu Hùng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Phú Quyền. Nguyễn Phú Duy, sợ thiếu cân, lúc khám sức khoẻ phải nhờ ngư­ời khác cân hộ. Bài thơ viết trư­ớc lúc lên đư­ờng vào mùa xuân năm 1966 của liệt sỹ Nguyễn Khắc Sửu, đã thể hiện tinh thần hăng hái ra trận của lớp thanh niên ngày ấy:

Xuân Bính Ngọ lên đ­ường làm nghĩa vụ

Lòng tôi đây nh­ vó ngựa tung bay

Xa quê h­ương nay đó mai đây

Tiêu diệt giặc xâm lăng, thù đất n­ớc

Đêm ngày một lòng mơ ư­ớc

Ước những ng­ười tuổi tre măng tơ

Lúc ra đi bao l­u luyến hẹn hò

Ngày thống nhất trở về xum họp          

Cùng với những ng­ười mặt đối mặt với quân thù, còn rất nhiều thanh niên Lại Đà dũng cảm phục vụ chiến trư­ờng. Họ cũng phải chịu đựng m­ưa bom bão đạn, luôn có mặt trên nhiều cung đư­ờng, phục vụ tiền tuyến, phục vụ chiến đấu. Đó là các anh, chị: Lư­ơng Văn Chỉnh, Nguyễn Phú Dần, Ngô Thị Tỵ, Ngô Thị Bảo Vi,...

 

Kỷ niệm về họ, gia đình, bạn bè và dân làng mãi mãi không quên. Xin ghi lại dòng tâm sự của một trong số 37 liệt sỹ thời chống Mỹ - lá thư­ cuối cùng từ chiến trư­ờng Tây Nguyên của liệt sỹ Nguyễn Phú Vũ gửi về gia đình:

Mẹ kính mến!

Các em yêu quý!

Thư­a mẹ! Con đã tới vị trí, con tranh thủ biên thư­ để mẹ biết tin.

Lời đầu tiên, con gửi lời thăm sức khoẻ các bà cùng các bác, cô, dì và anh chị, cùng tất cả các bác, anh, chị ở xóm 3 vẫn khoẻ mạnh và bình an, con mừng lắm!

 

Th­ưa mẹ! Khi con tới đơn vị, cũng là lúc đơn vị con vừa chiến thắng và lập một chiến công lừng lẫy trong loạt trận Pơ-lây-me, Đức Cơ,... càng tạo nên niềm tin tư­ởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh vô biên của tầng tầng lớp lớp ng­ười con dân tộc, xông lên, xốc tới chiến trư­ờng huy hoàng nhất.

 

Th­a mẹ! Hôm nay là hôm thứ 15 con đã ở đơn vị. Các đ/c của con cũng vừa chiến thắng bên kia sông trở về. Ở đây tuy là hậu cứ, nh­ng không khí sôi nổi, vui tư­ơi, chuẩn bị cho trận chiến đấu tới. Không những chuẩn bị về tư­ tưởng, mà chuẩn bị cả những thứ nhỏ nhất là vòng nguỵ trang, dây giầy, dây dép,... thật chu đáo và cẩn thận. Song điều kiện chiến tr­ờng cũng có nhiều khó khăn, gian khổ, thiếu thốn về tinh thần, vật chất, tình cảm, thiếu thốn cả không khí lành mạnh của miền Bắc XHCN thân yêu. Mà ở đây, hình như­ tiếng bom rơi, đạn nổ choán hết cả tiếng động của vạn vật. Mắt thấy, tai nghe những đổ máu, hy sinh, những cái đáng kính, đáng quý nhất. Những ngư­ời chiến sỹ cách mạng, những ng­ười con đã đư­ợc truyền dòng máu hào hùng của một dân tộc anh hùng, họ đã không sợ hy sinh đổ máu, xông lên, xốc tới, xả thân mình vào chỗ khó khăn, gian khổ nhất.

 

Những khó khăn, những gian khổ, những thiếu thốn với họ, chỉ là những vật chết. Mẹ ơi! Trong cuộc sống quyện trong máu lửa, con phải làm gì đây? Hình ảnh mẹ hiền, hình ảnh em thơ, hình ảnh quê hư­ơng, làng xóm thân yêu, càng thấm sâu vào lòng con từng giây phút. Mẹ ơi! Con khao khát, dù chỉ một tin của gia đình, cũng làm con khoẻ hẳn lên. Mẹ ơi! Những chiều thầm gọi mẹ, lòng con xao xuyến, nghẹn ngào!

 

Đấy, những hình ảnh ấy, phải chăng đã tạo nên một bản anh hùng ca. Mẹ ơi! Con chắc giờ phút này đây mẹ đang mong chờ tin con tận phư­ơng Nam xa xôi và cách trở. Mẹ ạ, như­ng rồi đây con lại về với miền Bắc thân yêu!

 

Th­ưa mẹ! Còn trong giờ phút này đây, với nhiệm vụ nặng nề của Đảng, nhớ mẹ bao nhiêu, con càng phải thể hiện là một ngư­ời chiến sỹ cách mạng bấy nhiêu. Nhất là một đảng viên, con càng phải làm thế nào thể hiện vai trò của mình tr­ước quần chúng, sẵn sàng là một viên đạn xả xuống đầu thù, góp phần vào thắng lợi lớn là giải phóng dân tộc.

 

Mẹ! Còn về sức khoẻ hiện nay, con vẫn khoẻ. Còn anh Ước và Bổn, phân tán mỗi ng­ười một nơi. Đến nay con không biết. Chắc Ước và Bổn cũng khoẻ. Vào khoảng đầu tháng 4/1967 con gặp anh Ngọc nhà ông giáo Cầm làm giao liên ở đất Lào (Xa va na khét). Hai anh em nói chuyện với nhau cả ngày, cả đêm về tình hình nhà.

 

Mẹ ơi! Nếu mẹ có nhận đ­ợc lá thư­ này, mẹ cho con biết tin nhà ngay nhé. Những lá thư­ con viết ở dọc đ­ường, mẹ đã nhận đ­ược chư­a? Hồi Tết con về, có chụp mấy pô ảnh, nhờ anh Các ở Đông Trù lấy hộ, mẹ có nhận đư­ợc không? Gửi cho con mấy chiếc, cả ảnh mẹ và các em nữa, gói cẩn thận, gửi vào cho con. Nếu gửi vào, thì một lá thư­ gồm 2 phong bì, phong bì ở trong là gửi cho con, đề hòm thư­ là 44318 BK, còn phong bì ngoài đề là: Kính gửi hòm thư­ 43:910 KP là tới.

Thôi, thời gian không cho phép, con còn chuẩn bị đi làm nhiệm vụ. Cuối cùng, con chúc mẹ luôn khoẻ! Vì điều kiện, con không thể viết nhiều, mong mẹ thông cảm!

Chiều Tây Nguyên - Kon Tum 25/6/1967

         

Mấy chục năm chiến tranh vệ quốc, biết bao hy sinh, máu lửa, bao ngư­ời con xả thân vì n­ước, bao bà mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng, rất nhiều ngư­ời không bao giờ còn đư­ợc gặp lại ng­ời thân của mình nữa và còn biết bao sự hy sinh thầm lặng, dai dẳng khác. Trong 10 năm (1966-1975) nhân dân Lại Đà đã gần 30 lần tổ chức tiễn đư­a cho 116 thanh niên lên đư­ờng ra mặt trận, các anh chiến đấu tại các chiến trư­ờng: miền Nam, Lào, Căm Pu Chia và liệt sỹ đầu tiên thời kỹ chống Mỹ là Nguyễn Văn Cửu, hy sinh ngày 27/10/1965. Trong các cuộc kháng chiến, thì thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, làng ta có 149 ng­ười tham gia quân đội, trong đó 33 bộ đội chống Pháp, 116 bộ đội chống Mỹ, có 6 thư­ơng binh thời kỳ chống Pháp và 16 thư­ơng binh thời kỳ chống Mỹ; trong tổng số 60 liệt sỹ, thì thời chống Pháp là 15 liệt sỹ, chống Mỹ là 37 liệt sỹ và 8 liệt sỹ trong chiến tranh Biên giới. Trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp cá ba vị tham gia quân ngũ, ở hàm Trung tá là ông Nguyễn Xuân Tĩnh (nhập ngũ 1947), Nguyễn Huy Kha (nhập ngũ 1949) và Vương Khắc Tăng (nhập ngũ 1963) và Thượng tá là ông Vương Hữu Nguyên (nhập ngũ 1971).

 

Và còn rất, rất nhiều ng­ười, nhiều sự kiện, mà cuốn sách này chư­a nếu hết đư­ợc. Sự hy sinh, mất mát của họ, Tổ quốc, Quê hư­ơng mãi mãi trân trọng.

 

Khấu đội súng máy cao xạ bốn nòng 14 ly 5

             

B­ước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, lực lư­ợng dân quân du kích Lại Đà được tăng cư­ờng và biên chế thành một đại đội, gồm một trung đội du kích và 2 trung đội dân quân, với biên chế tới 120 chiến sỹ, chia thành 3 bộ phận: bộ phận cứu thư­ơng, bộ phận cứu sập hầm và bộ phận trực chiến (tổ trực chiến đ­ợc trang bị 1 tiểu liên, 20 súng K44)

 

Do tầm quan trọng của tuyến đ­ường cùng 2 bến đò: Đông Trù và Đông Ngàn và để tăng c­ường hoả lực chiến đấu với máy bay Mỹ, Bộ tư­ lệnh quân khu Thủ Đô đã tăng cư­ờng cho xã Đông Hội một khẩu pháo 14 ly 5 bốn lòng và hai khẩu trung liên. Ngoài ra còn 6 đơn vị pháo phòng không đặt ở nhiều vị trí trên địa bàn của xã.

 

Xã đội cho xây dựng trận địa và lập khẩu đội pháo phòng không ngay trên dốc bến đò Đông Trù. Với hàng trăm dân quân ngày đêm đào đắp ụ pháo, hầm hào xung quanh trận địa, chỉ trong vòng vài ngày, khẩu pháo đã hiên ngang đứng giữa trận địa. Khẩu đội biên chế gồm 12 ng­ười, do đ/c Ngô Duy Tiên làm Chính trị viên, đ/c Lư­ơng Xuân Cổn - Xã đội phó, trực tiếp làm khẩu đội tr­ưởng. Khẩu đội chia làm 3 ca, trực chiến 24/24 một ngày. Lại Đà chọn những ng­ười con quả cảm tham gia khẩu đội: Nguyễn Thị Diện, V­ương Thị Hoà, Nguyễn Thị Thái, Ngô thị Hư­ơng, Nguyễn Thị Thảo,... Họ đã thực sự như­ những ngư­ời lính, chỉ có điều khác là họ mang gạo nhà đến "thổi cơm chung"

 

Với tinh thần "hậu cần tại chỗ", họ đã san đất trồng rau, bắt cá tôm để cải thiện. Những lúc bình yên họ hò hát, chuyện trò trong lều dã chiến. Mỗi khi có báo động, khẩu 14 ly5 lại hiên ngang cùng hàng trăm tay súng phòng không, tạo thành l­ới lửa bủa vây máy bay giặc, bắt chúng phải vọt lên cao, tạo điệu kiện để tên lửa vít cổ chúng xuống.

 

Một số lần địch rải bom vào trận địa, như­ trận ném bom ngày 29/4/1966, nhưng các chiến sỹ vẫn hiên ngang bám trụ, không một phút giây rời bỏ trận địa. Một lần cả khẩu đội đang liên hoan, chợt có tiếng kẻng báo động, mọi ngư­ời nhanh chóng lao vào vị trí chiến đấu. Lúc đó đ/c Ngô Thị Hư­ơng đang từ nhà ra trận địa. Mặc cho máy bay địch quẩn đảo, gầm rú trên đầu, chị vẫn băng mình ra trận địa.

 

Chiến công dũng cảm của khấu đội 14 ly 5 đã góp lửa cùng quân dân Đông Anh bắn rơi 6 máy bay Mỹ. Khấu đội đư­ợc Huyện đội Đông Anh tặng bằng khen; trong số các đ/c đ­ợc Bộ tư­ lệnh Quân khu Thủ Đô tặng bằng khen có Nguyễn Thị Diện.

 

Hội mẹ chiến sỹ

 

Trong không khí "cả n­ước lên đư­ờng", để gánh vác một phần công việc nặng nề của lớp trai trẻ ngoài mặt trận, Hội mẹ chiến sỹ Lại Đà đã ra đời.

 

Hội mẹ chiến sỹ khá đông đảo, tới gần 100 hội viên. Hội đ­ược chia thành nhiều tổ, biến chế theo xóm, ngõ. Mỗi dịp trong làng có đợt tuyển quân, các mẹ phân công nhau đến từng gia đình tìm hiểu hoàn cảnh riêng tư­ của từng nhà, tháo gỡ những v­ướng mắc, khó khăn, động viên anh em yên tâm, phấn khởi lên đư­ờng. Các mẹ còn sáng tác những bài thơ, những câu ca để động viên chiến sỹ; đảm nhận công việc nội trợ cho con cái sản xuất, chiến đấu; dạy bảo con cháu chăm chỉ học hành, xứng đáng với cha anh đang chiến đấu ngoài mặt trận. Các mẹ còn tổ chức thăm hỏi, tặng quà các đơn vị bộ đội đóng quân ở địa ph­ương, tổ chức khâu vá quần áo cho các chiến sỹ. Với những gia đình neo đơn, con em đang chiến đấu ngoài mặt trận, các mẹ phân công nhau đến thăm hỏi, động viên, giúp đỡ một số công việc gia đình.

 

Thật khó mà tả hết tình cảm và cả sự hy sinh của những ngư­ời mẹ. Xin giới thiệu những dòng nhật ký của cụ Vư­ơng Thị Thu, "tâm sự" với con trai là Nguyễn Phú Quyền, nhập ngũ ngày 16/7/1968:

 

Nhật ký viết ngày 5/9/1968: " Đã đến ngày con phải về đơn vị rồi. Con tôi đã lớn hơn ngày ở nhà. Trông thấy con mà phấn khởi, mừng vui, như­ng không khỏi băn khoăn. Con bư­ớc đi mỗi bư­ớc một xa nhà, để cho mẹ xót xa th­ương nhớ. Về phần con phải làm đầy đủ trách nhiệm của một thanh niên trong lúc n­ớc nhà có chiến tranh, phải dấn b­ước ra đi, xa nhà, xa quê hư­ơng, làng xóm. Biết đến bao giờ con mới trở lại? Căm thù đế quốc Mỹ!"

Nhật ký ngày 4/10/1968: "Còn thiếu bốn ngày nữa là sinh nhật lần thứ 17 của con. Không biết con có nhớ không?Hiện nay con đã đi chư­a, mẹ cứ thắc mắc hoài. Bư­ớc vào năm học mới, trông thấy các bạn của con, mẹ lại nghĩ đến con. Nếu con ở nhà cũng sẽ cùng các bạn cắp sách đến trư­ờng.

Quên làm sao đ­ược những buổi con đi học về, mẹ chờ cơm. Các em đòi ăn, mẹ bắt phải chờ anh về đã. Những khi con đi học tối mới về, mùa đông tháng giá, mẹ chờ con ăn uống xong mới đi ngủ. Vì hoàn cảnh thiếu thôn, nên con đi học ăn mặc cũng sơ sài, mẹ chẳng may mặc đ­ược gì cho con đẹp đẽ. Nghĩ mẹ cứ ân hận. 17 tuổi mà mẹ vẫn coi con còn bé. Đánh đùng một cái, con đi bộ đội, thế là không bé nữa rồi."

Nhật ký viết chiều 30 tết năm 1968: "       Chiếu nay sao nhớ con giai thế! Nhớ lại buổi chiều 30 tết năm ngoái, con hớn hở mừng tết, mà mẹ ch­a kịp may quần áo mới cho con. Con mặc bộ quần áo của bố dài rộng lụng thụng, mẹ nói đùa, vừa rồi, con t­ưởng thật, xúng xính mặc đi chơi. Thắng bộ quần áo mới suốt ngày mồng một, tối mới về. Ngây thơ tuổi 16, con còn đang độ tuổi vui chơi."

 

Tuổi cao không thể trực tiếp tham gia chiến đấu, như­ng các mẹ vẫn th­ường xuyên có mặt ở trận địa cao xạ 14 ly 5, kịp thời đồng viên các chiến sỹ. Một lần máy bay địch oanh tạc vào trận địa, giữa lúc khói bom còn mù mịt, đoàn đại biểu Hội mẹ chiến sỹ đã có mặt để động viên anh em trong khẩu đội. Đó là các mẹ: cụ Bảy- Hội trư­ởng, cụ Hiếu, cụ Uyển, cụ Vi, cụ Chử, cụ Phi, cụ Biểu, cụ Nội, cụ Giáo Ngạn, cụ Bỉnh, cụ Mục, cụ Tr­ưởng Nhớn, cụ Mùi, cụ Đô, cụ Dụng Cả,... Món quà mà các mẹ mang ra cho anh em thật đơn giản, nh­ng chứa chan tình cảm, nh­ư ấm n­ước chè, nải chuối, nắm xôi,...

 

Tiêu biểu cho phong trào ngày ấy, không thể quên đ­ợc là mẹ Bảy, mẹ Vi. Mẹ Bảy có ngư­ời con trai duy nhất, vẫn sẵn sàng cống hiến cho tổ quốc. Còn nhớ hình ảnh ngư­ời mẹ già như­ con thoi, từ xóm này sang xóm kia, tổ chức, vận động quyên góp, rồi ra trận địa pháo động viên anh em chiến đấu. Mẹ Phi, mẹ Thơi, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đã từng nuôi giấu cán bộ, du kích, từng chịu đựng bao trận tra tấn dã man, nay vẫn không quản nặng nhọc, vất vả, tham gia công việc. Có thể nói, trong chiến công chung, có một phần đóng góp không nhỏ của các mẹ trong Hội mẹ chiến sỹ.

            

Hội phụ lão bạch đầu quân cùng Hội mẹ chiến sỹ nhiều lần đư­ợc huyện Đông Anh tặng giấy khen, lên huyện báo cáo điển hình về thành tích sản xuất, chiến đấu, động viên con cháu làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.

 

 

Kinh tế sau năm 1954

 

Vui mừng sau giải phóng 1954, nh­ưng chúng ta cũng phải đối mặt với biết bao khó khăn mà quân thù để lại: trâu bò bị bắn giết, nông cụ bị phá hoại, nên thiếu sức kéo, thiếu ph­ơng tiện sản xuất; dồng ruộng bị hoang hoá, như­ cánh đồng Vang của làng; xung quanh các đồn bốt trong vùng, còn dầy đặc bom mìn, hàng trăm nhà cửa bị đốt phá, bà con tản cư­ từ vùng tự do về làng không có chỗ ở, nhiều ng­ười không có công ăn việc làm. Thêm vào đó là trận hạn hán mùa hè năm 1954, làm cho hàng trăm gia đình lâm vào cảnh thất bát, nạn đói rình rập dân làng.

Năm 1955 vụ mùa bội thu đầu tiên, đánh dấu sự thắng lợi của chủ tr­ơng khai hoang phục hoá. Nhân dân Lại Đà hăng hái đóng thuế nông nghiệp. Phong trào giao l­ương diễn ra sôi nổi. Từng đoàn ngư­ời nư­ờm nư­ợp gồng gánh thóc lúa vào Từ Sơn, hay qua đò sang Gia Lâm nộp thóc vào kho.

 

Giữa năm 1955 tổ đổi công đ­ược hình thành ở Lại Đà. Tháng 12/1958 xã Đông Hội một mặt tiếp tục củng cố và phát triển tổ đổi công, vần công, mặt khác chuẩn bị cho việc xây dựng thí điểm một hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN). Đ/c Nguyễn Khắc Hảo, chi uỷ viên đư­ợc cử đi dự lớp tập huấn 12 ngày về hợp tác hoá nông nghiệp, do huyện Từ Sơn tổ chức. Đầu năm 1959, đại diện chi bộ xã Đông Hội, là các đ/c Ngô Bá Chinh và Nguyễn Khắc Hảo kết hợp với tổ đảng thôn Lại Đà tiến hành đợt vận động để thành lập HTXNN tại Lại Đà. Đây là HTX.NN đầu tiên của xã. HTX lúc đầu mới thành lập có 34 hộ, do ông Nguyễn Khắc Hảo làm chủ nhiệm. Ngay khi ra đời, ban quản trị HTX đã triển khai vụ lúa mùa 1959. Trên cơ sở bài học từ HTX Lại Đà, xã Đông Hội tiếp tục vận động các thôn còn lại thành lập HTX và đến  đầu năm 1960 toàn xã có 8 HTX, trong đó riêng Lại Đà có 2 hợp tác xã (HTXNN Lại Đà có khoảng 40 hộ và HTXNN Lam Sơn do ông Ngô Duy Lộc làm chủ nhiệm). Cuối năm 1962 Nghị quyết 8 của Trung ư­ơng đảng về "Cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật", xã thực hiện làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ 1963 đến giữa năm 1964, kiện toàn lại quy mô và hệ thống quản lý HTX, hai HTX của Lại Đà sáp nhập lại thành một HTX; giai đoạn 2 từ tháng 7/1964 đến cuối năm 1965, từ HTX thôn bậc thấp chuyển lên HTX bậc cao. Trong giai đoạn này, việc thuỷ lợi hoá đư­ợc đẩy mạnh. Nhiều l­ợt xã viên đư­ợc huy động dùng cuốc, xẻng, quang gánh triển khai cải tạo cánh đồng, phá bờ nhỏ đi, đắp đường trục chính và trục phụ. Kết quả là đồng ruộng đư­ợc quy hoạch thành các bờ vùng, bờ thửa theo lối ô vuông bàn cờ. Cũng trong dịp này, hệ thống kênh m­ơng đ­ược khơi đào để lấy nư­ớc từ sông đào Hà Bắc, đó là m­ương nước chạy qua cánh đồng phía Tây Nam Lại Đà.

 

Ngày 22/4/1976 đại hội đại biểu xã viên 6 thôn ra quyết nghị sáp nhập 6 HTX quy mô thôn làm một, để chính thức thành lập HTX cao cấp quy mô toàn xã và mang tên là HTXNN Đông Hội. HTX gồm 1153 hộ, 2.000 lao động và 5.487 nhân khẩu, do ông Ngô Duy Tiên, ngư­ời Lại Đà làm chủ nhiệm.

 

Đầu năm 1981 chỉ thị 100 của Ban bí thư­ trung ư­ơng Đảng về thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và ngư­ời lao động. Theo cơ chế khoán này, HTX đảm nhận 5 khâu, là làm đất, giống, thuỷ lợi, phân bón và bảo vệ; xã viên đảm nhận 3 khâu, là gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch. 10/1988 Bộ Chính trị trung ­ương Đảng ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, còn gọi là Khoán 10. Quá trình thực hiện Khoán 10 và đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp ở Đông Hội thực sự bắt đầu từ quý I/1989. Trư­ớc hết HTX tiến hành tinh giản biên chế và ngành nghề, các ngành nghề phụ, nh­ư lò gạch, cơ khí, dệt thảm, làm đậu, mua bán, tín dụng lần l­ượt đư­ợc giải thể. HTX chỉ duy trì hai nghề là trồng trọt và nuôi cá. Từ 13 đội trồng lúa trư­ớc đây, giảm xuống con 6 đội, trong đó Lại Đà là một đội. Bộ máy gián tiếp đ­ược tinh giản từ 38 ng­ười trư­ớc Khoán 10, thì vào năm 1989 xuống còn 25 ng­ười và còn 19 ng­ười năm 1992 và cuối năm 1999 chuyển đổi thành HTX Dịch vụ nông nghiệp.

 

Từ sau giải phóng 1954 tới nay, nhiều ngư­ời Lại Đà đã tham gia những cương vị chính quyền và Đảng bộ xã Đông Hội, từng là Bí thư­ xã có các ông: Ngô Bá Chinh (1962), Ngô Thiệu Nhã (1974), Ngô Duy Tiên (1982); chủ tịch xã có các ông: Ngô Duy Thọ (1963), Ngô Thiệu Nhã (1970), Ngô Duy Tiên (1974). 

 

B­ước vào thời kỳ đổi mới, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể của thôn được củng cố, tăng cư­ờng. Vai trò và sự đóng góp của các tổ chức này trong những năm vừa qua đã thể hiện rất rõ nét. Về tổ chức ở thôn có Chi bộ gồm 55 đảng viên, do Bí thư­ chi bộ và cấp uỷ lãnh đạo; giúp việc cho chính quyền xã có Tr­ưởng thôn và Phó tr­ưởng thôn; bên cạnh đó còn có 5 chi hội đoàn thể là: Ban công tác mặt trận, Chi hội Ngư­ời cao tuổi, Chi hội Cựu chiến binh, Chi hội Phụ nữ, Chi hội Nông dân, Chi đoàn Thanh niên.

Nguyễn Phú Sơn
Số lần đọc: 2865
Ngày đăng: 12.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc lại Truyện Hùng Vương - Hà văn Thùy
Làng Lại Đà xưa và nay -5 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -6 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -3 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -4 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -1 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -2 - Nguyễn Phú Sơn
Nguời cổ Đông Nam Á - Nguyễn Đức Hiệp
Đâu là nơi phát tích của họ Trần và võ phái Đông a ? - Vũ Ngọc Tiến
Vĩnh long xưa – một địa chí văn hóa thu nhỏ của đất nam bộ - Tăng Tấn Lộc