Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.180
123.222.637
 
Đọc thơ từ tuyển tập “Văn, thơ, nhạc Vĩnh Long 20 năm”
Văn Quốc Thanh

 Thật là quá muộn bây giờ tôi mới đặt bút ghi lại cảm nhận của minh từ những dòng thơ từ tuyển tập “Văn thơ nhạc Vĩnh long 20 năm” trong khi tập sách đã ra  khá lâu rồi.

Lật qua các trang thơ, tôi tự hỏi không lẽ hai muoi năm mà thơ Vĩnh Long được chọn lọc từng này ư?

Hỏi ra mới biết đây là phần góp nhặt rấy nhỏ trong kho tàng vô tận của những người làm thơ viết về Vĩnh Long.  Bởi vì kinh phí hạn hẹp nên Sở Văn hóa Thông tin và Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Long không thể đáp ứng lòng mong mỏi của tác giả cũng như những người yêu thích thơ.

Đọc qua 89 bài thơ của 57 tác giả, tôi không thể trích ra hết. Mỗi tác gỉa thể hiện niềm vui nỗi buồn qua nhiều cái nhìn tinh tế, sâu sắc, có lúc trào phúng, có lúc lạnh lùng dửng dưng khô khốc.

Với giọng thơ trào phúng Việt Chung ghi lại “Đêm hát cúng đình”:

Ông Hương Cả ngồi cầm chầu nhịp trống

Tiếng kèn la, tiếng trống gõ lung tung

Một triều đình đầy vàng son lộng lẫy

Đứng vây quanh kẻ nịnh với anh hùng.

Mới đọc qua tôi cứ ngờ ngợ làm gì có cái kèn la, chỉ có một dụng cụ mang tên phèn la thường dùng vào nhhững buổi dạo đầu, đánh lên để báo hiệu trong xóm làng có người chết rất phổ biến ở miến Trung, nhưng khi đọc hết câu thơ tôi mới thấu hiểu hết ý nghĩa của tiếng “kèn la” rất đơn điệu ở hợp xướng trống “gõ lung tung” của đêm hát cúng đình mà người “hùng” cầm chầu được vây quanh bởi bọn nịnh bợ, lũ sâu dân mọt nước.

Và Hồ tĩnh Tâm thường ngày vui nhộn, tiếng cười của anh vỡ cả không gian, nhưng khi đối diện với chính mình thì tiếng cười nói ấy như biến vào thinh không. Anh đứng trước “Cõi phàm” thì:

Cõi phàm liên nhu ta dâng

Uống cạn chén đời bật khóc

Nghìn năm dẫu chưa bạc tóc

Một lời đủ chạnh niềm riêng.

Rồi Nguyễn Bạch Dương khô khốc đến nỗi khi chọn cái tựa cho bài thơ cũng trơ trọi một từ “Lời” với ba âm ngắn ngủn. Anh ví lòng mình như một cái đáy giếng kiệt nước trơ ra những chiếc lá vàng, một giọt mưa lạc lỏng rơi vào cũng làm ta ngỡ ngàng sững sốt. Anh cần có những giây phút yên lặng, lời anh thống thiết van nài:

Giếng tôi khô kiệt nước rồi

Em đừng ném sỏi nghe lời lá vang

Chút mưa cũng chỉ ngỡ ngàn

Làm sao thấu được mạch khan một đời.

Còn Phạm Thị Quý trớc trò chơi “Đu quay” rất bình thường của bọn trẻ, bất chợt ở khoảnh khắc ngắn ngủi chị phát hiện trên cái vòng quay chóng mặt ấy vị trí của người nầy mất đi thì người khác thay vào. Phải chăng đó là quy luật muôn đời mà con người không thoát ra được:

Trẻ con đu quay rất đổi hồn nhiên

Đâu nghĩ mình đang đổi nhau vị trí

Chỉ có chúng ta trước trò chơi giản dị

Bỗng nhận ra mình trên chiếc đu quay.

Và trước mặt mình cuộc sống đang xoay

Với nhiều vòng tròn chóng mặt.

Lại có người ví mình như một sinh vật nhỏ bé để nói lên quan niệm sống. Tầm Học qua bài “Con kiến vàng”:

Thân mình nhỏ nhít sánh chi voi

Phận kiến đâu ham miếng mặn mòi

Hay:

Lớn bé trẻ già chung một tổ

Nêu gương hòa nhẫn đáng vàng thoi.

Hoặc Phan Phúc Bình gắn đời mình vào dòng phấn trắng, bục giảng. Từ chỗ đứng bình thường anh đã thốt lên:

Đường đời chên vênh, đường đến lớp gập ghềnh

Nơi bục giảng cò dễ đâu bằng phẳng

Nếu chẳng giữ để bước chân hụt hẫng

Thì mực tím học trò chỉ còn là nhớ thương.

Cuộc sống mỗi ngày có khó khăn, nhiều người hụt hơi chạy theo cơm, áo, gạo, tiền còn anh vẫn dửng dưng:

Và mỗi ngày, trên bục giảng mỗi ngày

Ta vứt bỏ áo cơm ngoài cửa lớp

Như phấn trắng dẫu mòn đi thầm lặng

Chút bụi cuối cùng cũng cố giữ màu riêng!

Có lẽ đất Vĩnh Long đã giữ chân nhiều người từ xa đến. Có người rất an tâm khi nhận nơi đây làm quê hương thứ hai của mình. Ta thử tìm về Vĩnh Long vùng đất phù sa giữa hai nhánh sông Tiền, sông Hậu để nghe Sao Vàng nói về quê mình qua bài “Thương quê nội nhớ về quê ngoại”:

Thương quê ngoại nhớ nhiều quê nội

Hạt phù sa thơm hoa trái bốn mùa

Dòng nước ngọt ôm cánh đồng màu mỡ

Mùa hè vui quanh bóng mát hàng dừa.

Sao Vàng khắc hoạ quê hương của mình bằng những hình ảnh mộc mạc, bình dị như hạt phù sa, hàng dừa, hoa trái, đồng ruộng. Với Sao Vàng ở nơi đâu cũng là cội rễ cả:

Một núm ruột hai quê thương nhớ

Lá rơi nào khỏi cội xa nguồn

Khi con ở xa chân trời góc biển

Tấm lòng nào không nặng nghĩa quê hương?

Dù quê nội hay quê ngoại, quê anh hay quê em, tôi có cái cảm nhận hơi “hồ đồ” là những bài thơ trong tập “Văn, thơ, nhạc” hầu như những người cầm bút cũng gởi gấm vào Vĩnh Long những tình cảm đậm đà sâu nặng. Từ rặng bần, con đò, bến nước; từ con tôm, con cá, con đom đóm dân dã. Hữu Nghĩa với “Cây bần”:

Nhớ con nước dỡ chà bần bên vịnh

Vui nôn nao tôm cá mấy khoang đầy

Nhớ làm sao nồi canh chua bần chín

Ven bải cồn bè bạn xúm lai rai.

Và:

Bần giản dị đến âm thần lặng lẽ

Cứ đêm đêm đom đóm rủ nhau về

Thắp cho bần lấp lánh ánh đèn khuya.

Người địa phương nặng tình với quê hương Vĩnh Long là điều hiển nhiên, nhưng người từ xa đến càng quay quắt hơn đó mới là chuyện lạ. Cái gì làm cho họ cồn cào ray rức? Ồ đây rồi! Tôi đã bắt gặp Dương Thanh Thanh đến với quê hương thứ hai của mình qua bài “Con gái Huế làm dâu”:

Chưa quen cả con nước ròng, nước lớn

Chỉ biết cầu tre qua câu hát ví dầu

Mà làm sao em dám về làm dâu

Quê anh?

“Con gái Huế răng mà gan giữ rứa?”

Em chỉ cười nghe câu ghẹo thương yêu.

Đúng. Dương Thanh Thanh chỉ biết mỉm cười. Tôi chưa thấy Thanh Thanh cười khi được ghẹo, nhưng tôi tin chắc trong nụ cười đó phản phất cái lo. Lo không có mẹ bên cạnh dạy nấu canh chua Nam bộ, lo không có mẹ nắm tay qua dắt cầu khỉ gập ghềnh. Nhưng bạn đừng phập phồng lo sợ nữa. Vì chàng trai Nam bộ ấy sẵn sàng làm thay bạn mọi việc. Đọc bài thơ chị, ta thấy chị đột ngột chuyển từ “Mẹ” theo tiếng gọi rất quen thuộc phong tục người miến Trung, đặc biệt là ngưới gốc Huế sang từ “Má” rất phổ biến của người miền Nam:

Em quen tự bao giờ chẳng rõ

Tần tảo thân cò, em yêu Má nhiều hơn

Hoá ra Má của anh là Mẹ của em. Cũng là những bà mẹ thật thà chất phác, cũng thân cò lặng lội bờ sông và chị cũng đồng ý”suốt đời” ở lại Vĩnh Long, vì:

Vì tình yêu..em đã: Về làm dâu

Quê anh.

Những dòng thơ trên là tấm lòng bộc bạch của người con gái nhận Vĩnh Long làm quê hương thứ hai. Còn người con trai thì như thế nào? Ta nghe Phan Tư Thúy tâm sự bằng những vần thơ trữ tình ngọt ngào man mác:

Anh chứa tình yêu em trong nỗi nhớ dòng sông

Trong bóng màu xanh của màu cây và mắt biếc

Làm lòng anh cứ cồn cào luyến tiếc

Cớ sao mình chẳng ở bên kia sông?

Bên cạnh dòng sông còn thấp thoáng rặng bần và con đò lặng lờ trôi theo dòng nước. Dường như nơi đây Nguyễn Mẫn Cán một lần “tiễn chị”:

Chị về, em lại tiễn đưa

Đò ngang một chuyến, giữa trưa ngập ngừng

Tay cầm, mắt chị rưng rưng

Lao xao con nước, rặng bần bên sông.

Vô tình hay cố ý, trên cùng một trang thơ Nguyễn Mẫn Cán “Tiễn chị” vừa xong lại tiếp tục “Đưa người xa xứ”:

Mai em đi Cali

Buồn tênh người xa xứ

Ly bia đầy sóng sánh

Em cố uống thật say.

Mới đọc ba dòng thơ đầu tôi cứ ngỡ người uống bia là anh chứ không phải em. “Buồn tênh nguời ở lại” chứ không phải người xa xứ. Nguyễn Mẫn Cán dồn cái buồn cho người xa xứ. Em nâng ly cố uống thật say để ngày mai hãy tỉnh. Cái tỉnh sau cơn say mới thấm thía:

Nỗi buồn dâng mắt biếc

Ngút ngát tình cố hương.

Em đi rồi biết ngày nào trở lại. Sau cuộc chia tay ấy còn đọng lại dư âm, đợi chờ và nuối tiếc. Lắng nghe tâm sự của Ngọc Hải qua “Dư âm”:

Biết bao giờ thèm về mái nhà không?

Hay ngơ ngác trên bước đường rong ruổi

Cánh chim xa trông chờ nhau đã mỏi

Biết bao giờ cho đến bao giờ?

Đợi chờ, hoài vọng và sựu trống vắng vây quanh ta. Còn đâu cái thời ta hào phóng đem cả trời biển ra tặng cho nhau và nhận về mình vị đắng của nỗi buồn như “Không đề” của Thành Khởi:

Tôi có nỗi buồn làm tràn ly rượu

Rượu mềm môi-Chảy hết về tim

Tôi có niềm vui làm liền dấu chân chim

Nhưng – niềm vui ít đến

Tôi tặng em điều này

Và nhận về mình

Một chút đắng cay.

Trong tình yêu có cho mà không nhận, có người nhận mà không cho. Ngọc Mai do dự với “Tự tình II”

Muốn cho anh nhưng ngại câu hò

Giếng sâu, giếng cạn…

Em không tiếc sợi dây dài

Mà chỉ tiếc đời nhau.

Họ cứ sợ sệt, thăm dò. Không ai dám ngỏ lời trước để lòng bồn chồn quay quắt, nói xa, nói gần. Văn Lệ Trinh như hoá đá trước tình cảm ấy qua bài “Đêm trăng”:

Canh cánh lòng quay quắt nhớ người xa

Trăng đắm say thả mộng xuống quê nhà

Trăng rất thật còn anh thì hư huyễn

Đêm mênh mông cỏ cây cùng hòa quyện

Trơ trọi một mình em hoá đá dưới trăng

Riêng Thái Hồng thì nói xa, nói gần:

Dân ca có tự tháng ngày

“người dưng khác họ…” dễ đày doạ nhau.

Rồi hai kẻ người dưng khác họ ấy ngoan ngoãn tự hành hạ chính mình để chắt lọc ra nụ cười đầy nước mắt:

Như con chiên của Chúa

Ta cúi tạ ơn nhau

Xin giữ gìn tiếng khóc

Xin giữ gìn nụ cười.

Hoặc úp úp mở mở như Hồ Duy. Khi anh đã hiểu em rồi, nhưng cứ chờ anh lên tiếng trước. Hồ Duy do dự hoài rồi chọn ngày đầu năm tỏ tình để “lấy hên” nhưng mãi vẫn không thốt ra lời phải chờ đến năm sau và nhiều năm sau nữa mà nói không thành lời tiếng yêu em:

“Dặn lòng rằng tết năm nay

Sang thăm em sẽ nắm tay tỏ tình”

 

“Thôi đành hẹn lại hôm sau

Gặp em viện lẽ có câu chuyện cần”

 

“Mồng ba lần nữa sang nhà

Thấy em nâng nhẹ cánh hoa mai vàng”

 

“Đêm nằm mùng bốn nhủ thầm

Trộn yêu em đến hết năm tỏ tình”

Khi sợi chỉ đời trói buộc những người yêu nhau thành vợ, thành chồng. Anh đối đầu với cơm áo, gạo tiền. Em tay bế, tay bồng bếp núc lo cơm nước chồng con. Bất chợt anh lặng nhìn con ngủ trong vòng tay em và tự hỏi:

Con ngủ rồi em mới ngủ phải không

Anh lặng ngắm sợ làm em thức giấc

Em nhẹ cười. Tay nắm lấy tay con

Ừ ngủ đi, em cứ ngủ cho ngoan

Con ngoan lắm nương vào hơi mẹ

Bao toan tính của đời thường lặng lẽ

Cũng tan đi trong giấc ngủ yên bình

(Lặng nhìn em ngủ-Bằng Lăng)

Chiến tranh đã đi qua, chúng ta đang ở trong đất nước thanh bình, nơi bọn trẻ dễ gần nhau, tình yêu dễ đâm chồi kết trái. Nhưng Thuý vân vẫn không quên tìm về biên giới chia sẻ với những người lính đang thức cùng gian tuân:

Nếu không đến cùng anh

Làm sao em biết được

Biên giới rừng mênh mông

Sương đêm thấm buốt lòng.

Từ biến giới, Thuý Vân buốt lòng cùng người lính trẻ, còn hậu phương Ngọc Hiệp cũng chạnh lòng trước “Những bia mộ không tên”:

Tôi đến bên dãy đất mọc ven đường

Những nắm đất xếp hàng cùng đồng đội

Tôi lặng lẽ đọc tên từng bia mộ

Bỗng bàng hoàng vì bia mộ không tên

Chiến tranh qua rồi còn lại nỗi đau

Xã vùng sâu mọc lên bao nắm đất.

Chuỗi thời gian đất nước thay da đổi thịt. Người làm thơ tiếp cận trước màu sắc của cuộc sống thanh bình. Vết thương chiến tranh còn lành hẳn không khi ngồi trên bàn nhậu bất chợt Văn Quốc Thanh phát hiện người lính trở về với thân hình không lành lặng:

Ngừơi lính già tôi gặp chiều nay

Dáng khập khễnh cứ nghiêng về phía trước

Dấu chấm phẩy viết ra sau mỗi bước

Đuổi theo ông đến cuối cuộc hành trình.

Rồi:

Ta chợt hiểu từ đôi chân ấy

Dấu chấm phẩy viết ra từ máu thịt của con người.

Tuyển tập “Văn, thơ, nhạc Vĩnh Long 20 năm” còn rất nhiều câu thơ, đoạn văn, dòng nhạc phản ánh muôn màu muôn vẻ về tình đất, tình người. Hai mươi năm đâu phải là dài, nhưng với ngần ấy thời gian cũng đủ cho chúng ta suy gẫm nhiều về cuộc sống.

Những dòng viết trên đây là phút giây bất chợt của một người yêu thích thơ, không mang tính phê bình nghiên cứu văn học nhiều. Bên cạnh những câu thơ vừa trích còn nhiều truyện hay và dòng nhạc ấm áp tình người. Hy vọng một ngày nào đó sẽ có nhiều bài viết nhận xét sâu sắc dành cho Tuyển tập nói về văn, thơ, nhạc của vùng đất Vĩnh Long giàu đẹp.

Văn Quốc Thanh
Số lần đọc: 3096
Ngày đăng: 11.03.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đằm thắm thơ Nguyễn Thị Kim Liên - Nguyễn Đức Thiện
Sông cạn – Son sắt niềm tin yêu - Triệu Xuân
Trầm tích(*) huyền thoại về một người Mẹ - Phạm Lưu Vũ
Diện mạo THƠ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG qua cuộc thi 2006 - Lê Xuân
Thái Vũ : người đi tìm cái đẹp trong trang sử dân tộc - Nguyễn Khắc Phê
Họa sĩ Bửu Chỉ và một bức tranh chưa đặt tên - Nguyễn Khắc Phê
Lê Văn Thảo – Người “Nói thơ ” bằng văn xuôi của Nam Bộ - Hoài Anh
Ngày xuân đọc lại “Xứ Trầm hương”(1) của Quách Tấn - Nguyễn Man Nhiên
Trao đổi cùng nhà thơ Anh Chi : Điều đáng buồn lại là… - Nguyễn Tý
Thơ Đỗ Nam Cao – Mùi rơm ngun ngút cháy - Hoài Anh