Tôi quen biết và thân thiết với nhà thơ Nguyễn Hoa chừng hơn ba chục năm có lẻ. Tôi luôn yêu quí và tôn trọng anh vì tài năng một phần, còn quan trọng hơn là một nhân cách sống. Nhân cách sống, nói cứ như đùa, nhưng tên chính xác của nó vẫn phải là một nhân cách sống. Anh lặng lẽ, hiền lành mà giống như một tấm gương, để là một tấm gương trung thực, thẳng thắn, nhường nhịn, khổ đau âm thầm phản chiếu những buồn vui, ấm lạnh của cuộc đời, của đời sống văn chương, bầu bạn văn chương trong một nỗi buồn, nỗi cô đơn thăm thẳm và cực đoan nào đó. Tôi rất quí và kính trọng tình bạn thuỷ chung của anh với hai nhà thơ khác rât đáng kính trọng và rất nhiều mến yêu là Nguyễn Thuỵ Kha và Nguyễn Trọng Tạo. Những lúc đùa vui, những giờ ngất ngưởng, tôi thường gọi các anh là “những giọt mưa đồng hành”, nhại theo tên bài thơ rất hay, rất nổi tiếng của Nguyễn Thuỵ Kha. Tôi từng chứng kiến nhiều cuộc rượu vui vẻ của những người bạn ấy, trong khi Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Thuỵ Kha uống rượu lu bù, cười nói vung trời, ngỡ như họ đang “bán trời không văn tự” thì Nguyễn Hoa cứ bình tĩnh, thản nhiên, lặng lẽ ngồi nghe, vừa tủm tỉm cười, vừa uống …nước khoáng! Đừng tưởng, anh chịu lép, chịu thua hai người bạn thân thiết và đầy tài năng trời phú của mình. Anh yêu bạn thương bạn, mà chiều, mà nhường nhịn đó thôi. Ngày xưa, ở nước Tầu, có ông Bá Nha và ông Tử Kỳ thân quí nhau, tri âm tri kỷ với nhau chỉ bởi một tiếng đàn, đến thành điển tích, điển cố văn chương, nghệ thuật, thiết nghĩ cũng đến thế là cùng. Sau bao năm gần gũi và chứng kiến cách sống, cách ứng xử của Nguyễn Hoa, tôi nhận ra rằng, thực chất trong bản lĩnh, trong tâm hồn, Nguyễn Hoa là một thi sỹ đáo để. Anh đáo để một cách lặng lẽ, âm thầm. Anh đáo để không trong giao tiếp bạt thiệp, anh đáo để không bởi những tranh giành quyền chức, quyền lực, những cạnh tranh vì miếng cơm, manh áo, một chiếc ô tô hay một cái nhà lầu. Những thứ đó, theo tôi, Nguyễn Hoa có thể có và cũng có thể nhường, sẽ thản nhiên và âm thầm chịu đựng, nếu lộc trời và lộc đời không ban cho anh. Nhưng với thơ thì anh quyết liệt. Anh kiệm lời trong giao tiếp đã đành, đến kiệm chữ trong thơ mới thực là riết róng. Hôm vừa rồi, Nguyễn Hoa tặng tôi tập thơ mới của anh, có tên là Ánh mắt tươi. Xưa nay, người đời chỉ biết đến rau tươi, cá tươi, thịt tươi…rồi đến gió tươi của những người thợ mỏ là cùng, theo cách nói của cố nhà văn Tô Ngọc Hiến ở Quảng Ninh, còn Ánh mắt tươi thì quả lần đầu tôi gặp.Nếu tôi nhớ không nhầm, thì đây là tập thơ thứ 10 của Nguyễn Hoa. Người làm thơ ở đất nước mình, có đến 10 tập thơ được in ra, đâu phải là chuyện dễ, đâu phải là chuyện muốn là được! Giữa thời buổi kinh tế thị trường, thơ ngày càng mất giá, chỉ còn cách như ông Tản Đà, gánh thơ lên chợ Trời bán, may ra mới đắt, mà cũng chưa chắc. Vậy mà nhà thơ Nguyễn Hoa in liền tù tì những 10 tập thơ, thì tôi xin bái phục , nói như cố nhà văn Vũ Bão thì chúng tôi, những người bạn anh đều kính trọng mà “vãi linh hồn”!
Tôi đã đọc Ánh mắt tươi của Nguyễn Hoa trong niềm bái phục đó. Càng bái phục hơn khi anh một mực trung thành với tuyên ngôn của mình về thơ, sở nguyện của anh về thơ:
Tôi thích
Lời thẳng
đắm lòng
thơ ngắn!
Trong bạt ngàn thơ hiện nay, Nguyễn Hoa đã tự giác và kiên cường chọn cho mình một lối đi riêng, khác kiểu, khác người, trước hết đó là một cá tính thơ, sau đó là dấu hiệu của thành công rồi. Nói thế, bởi vì tôi nghĩ, người làm thơ có tính cách riêng là người đã thành công một nửa trong lựa chọn nhiều khi khắc khoải và đau đớn của mình. Nhà văn Lỗ Tấn nói: “Trên mặt đất vốn không có đường, người ta đi mà thành đường!”Con đường nhà thơ Nguyễn Hoa chọn , theo tôi là con đường mòn leo núi của một gã tiều phu. Chí ít, anh cũng biết tự vẽ ra con đường cho mình đi mỗi ngày và chiều chiều, anh mang về được một gánh củi. Một gánh củi còn hơn là những kẻ cuống cuồng, sấp ngửa, hớt hải đi mãi rồi cuối cùng trắng tay!
Thơ Nguyễn Hoa bề ngoài tưng tửng, hồn nhiên, nhưng thực ra thâm hậu lắm! Đó là sự thâm hậu của lặng im. Nhà thơ Gamdatốp của xứ Đaghetxtăng nói rất hay rằng: “ Người ta cần 2 năm để học nói và cần 60 năm để học im lặng.” Thật là một ý tưởng tuyệt vời cho mọi người cùng suy ngẫm, và cũng thật đồng điệu cho phong cách thơ Nguyễn Hoa. Dường như, Nguyễn Hoa chỉ viết bằng sự im lặng giữa những dòng chữ. Chẳng hạn, một chuyện nghiêm trang như việc giơ tay biểu quyết trong các cuộc Hội nghị, hội thảo, Nguyễn Hoa nhìn và ngẫm:
Rất nhiều những Hội nghị
Rất nhiều những cánh tay giơ cao!
…
Đến bao giờ
Hết những cánh tay héo
Khi giơ cao?!
Tôi cứ bâng khuâng nghĩ, phải có một “ánh mắt tươi” mới có thể nhận ra “những cánh tay héo” kia, và tôi hiểu, đó là thơ của im lặng.
Càng ngày, thơ Nguyễn Hoa càng mang dáng vẻ của thành ngữ, tục ngữ. Anh chủ trương tước bỏ hết những phụ kiện, trang sức rườm rà, giống như người thợ mộc dùng rìu vạc đi giác gỗ, để lõi gỗ hiện ra. Lại giống như những mũi tên bắn thẳng, bay vút về đích. Và anh viết:
Ý ngay
Lời thẳng
Độc nọc rắn
Buốt nọc ong
Chữa lành bệnh
Tự trong
Hồn người!
( Nọc)
Đọc những câu thơ ấy, ta bỗng liên tưởng đến câu thành ngữ: “Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng” và nhận ra nét thâm thuý trong thơ Nguyễn Hoa. Nhìn vẻ ngoài, có người cho rằng, thơ Nguyễn Hoa quá lý trí, quá khô khan, nhưng tôi nghĩ, bên trong sự khô khan , luận lý của những câu chữ cộc, mộc kia là một trái tim nồng nàn đang thổn thức, run rẩy đập. Nhìn một con sáo biết nói tiếng người, anh tự đặt câu hỏi:
Sao lại dạy chim tiếng người
Sao lại bắt chim nói tiếng người?
Hở người?
(Nói)
Cũng vậy, khi bắt buộc phải tiếp xúc với những kẻ hoạt đầu, anh phẫn nộ kêu lên:
Bùn đất sinh ra lươn
Trơn tuồn tuột
Bùn đất sinh ra chạch
Lẩn nhanh ẩn hiện
Trời sinh ra người
Sao có người
Trơn như lươn
lẩn như chạch?!
( Sao)
Vì kiệm lời nên Nguyễn Hoa có ý thức dụng công tinh lọc chữ. Ở phương diện này, tôi thấy Nguyễn Hoa cũng riết róng như nhà thơ lão niên Lê Đạt, tuy mỗi người có một bí quyết tu từ độc đáo khác nhau. Trong những trường hợp thành công, chữ của Nguyễn Hoa như những tín hiệu, lại như bấm huyệt, khiến người đọc ngạc nhiên đến sững sờ. Chẳng hạn, đây là một nỗi nhớ nhung hay hoài niệm xa xôi:
Chiều thẫm
Gió se
Anh lẻ…
Biển non
Sóng nõn
Em xưa!
( Thơ chợt I)
Hoặc:
Sớm dậy
Đất tơ
Anh mới…
Bẵng mây
Trời rộng
Em đầy!
( Thơ chợt II)
Nguyễn Hoa đã tạo cho thơ mình một vẻ riêng biệt, đầy cá tính sáng tạo qua những câu thơ trên. Sự độc đáo trong phong cách và thi pháp ấy có chinh phục được số đông bạn đọc hay không lại là chuyện khác. Những cái lạ, khi xuất hiện, thường không thuộc về số đông. Ngay cả khi viết thể thơ truyền thống lục bát, Nguyễn Hoa cũng tự làm mới mình theo một cách riêng:
Thế nào
hồn phố, hồn làng
hồn mây, hồn biển
lang thang hồn mình
Mai này
làm kiếp chúng sinh
có ai bền gọi
hồn tình
bay lên?
( Hồn tình)
Là người trọng chữ, Nguyễn Hoa biết thương những “kiếp chữ” bị lưu đầy trong những câu thơ “ không hồn vía”, vì vậy, mỗi khi đặt bút làm thơ, anh nâng niu chữ như nâng niu những viên ngọc quí. Song, đó không phải là một niềm tin mang tính tôn giáo hay là một mặc định, bởi vậy, nhiều khi nhà thơ cũng phân vân và hồ nghi ngay cả chính mình:
Tự nhiên trời chỉ đổi màu
Gió thay chiều gió mà sầu hiu hiu
Thoảng như mây chuyển, chim kêu
Bâng khuâng mình đấy có yêu được mình?
( Thoảng)
Còn nhiều điều cần nói khi đọc Ánh mắt tươi của Nguyễn Hoa, nhưng xin dành cho bạn đọc. Chỉ xin đồng cảm và chia sẻ nỗi niềm cùng anh khi đọc những dòng thơ này:
Cả kiếp người
Trôi
Trôi thật nhanh
Về mây biếc
Về gió reo
Về sông mải
Về đâu?
Viết được như thế là đốn ngộ rồi, mừng cho anh.
Tam Đảo, 12-9-2006