Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.180
123.219.507
 
Thanh Tâm Tuyền ,thi sĩ tuyệt vọng trần truồng-2
Bùi Công Thuấn

Nhưng TTT đã không trở thành thi sĩ ca dao như ông muốn vậy. Ông không có được những bài Lục bát hay . Bài Xuân Ca đăng báo Dân Chủ ở Saigòn 1957 là một bài Lục bát hiếm hoi . TTT chỉ  làm thơ tự do  theo các trào lưu hiện đại . TTT cho rằng : “ Thơ bây giờ là một sự xáo trộn ngôn ngữ. Ta phải ghi nhận công của phái siêu thực Tây phương đối với ngôn ngữ. Tôi làm thơ, ngoài mối ám ảnh chung về tư tưởng đức lý nói trên, còn theo đuổi một mối ám ảnh về ngôn ngữ. “

 

Điều này khác xa với Bùi Giáng . Bùi Giáng triệt để phủ định ãnh hưởng trào lưu

phương Tây . "Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy theo đuổi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ." (6)

 

Điều lạ lùng là cả hai nhà thơ , dù rất khác nhau về quan điểm , lại từng là bạn cuả nhau và đã có những đóng góp đặc biệt làm mới thơ ca Việt Nam . Thanh Tâm Tuyền và Bùi Giáng đã là những phong cách nghệ thuật độc đáo , những cá tính sáng tạo nổi bật  trên thi đàn miền Nam Việt Nam nưả sau thế kỷ XX , mà những thế hệ sau có muốn học tập cũng không dễ gì vượt qua được.

 

II. Hoàng đế cô độc

 

Sau khi đã vượt qua những luật lệ và nhập được vào lãnh điạ  thơ cuả Thanh Tâm Tuyền , chúng ta hãy đến thăm vị hoàng đế và dạo quanh lãnh thổ cuả người , để tìm kiếm , và may ra , tìm thấy  kỳ hoa dị thảo , tìm thấy những suối nguồn tươi mới  , và tìm thấy một tân thế giới  chưa từng ai đặt chân đến chăng ?

 

Trên hành trình sang tạo cuả mình TTT người bộ hành cô đơn ( Chim ) , người nghệ sĩ đơn độc ,  Người ý thức sâu sắc và quyết liệt thân phận cô độc . Cô độc , buồn sầu trong sự chọn lưạ con đường thơ , chọn lưạ làm một tên hề buồn nhất thế giới.

 

Như kẻ say rót rượu lấy mà uống

Cho vui thêm cuộc hành trình

( Đúng rồi những người thù ghét thơ tôi ơi )

Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc.

( Bao Giờ )

 

Mày chỉ là tên hề buồn, tên hề buồn nhất thế giới chẳng làm ai cười nổi.

( Sầu Khúc )

 

TTT  cô độc trong ý  thức hiện sinh ,  sợ hãi cả cây cột đèn , hoang vu lạnh lẽo và trần trụi ,  trong tâm trạng  một người sống sót ( Cỏ ) , thường trực đối diện ám ảnh cuả sự nỗi chết ôm ghì , chết đuối , bóp cổ chết , súng bắn vào đầu đạn nổ nhịp ba , cuả biển đen sầu hận , cuả  hư vô không cùng

 

Anh sợ những ngôn ngữ bơ vơ

Sau những chiều động bão

Những ngày kín sương mù

niềm hắt hủi

Khói tím buồn

hàng thân cây cô đơn như mình anh

vùi hận sầu đen tối

Chôn xuống đáy biển sâu

chiều dốc lạnh

Con đường duỗi dài cánh tay người chết đuối

thành phố bỏ trốn

Em có thấy hư vô đắp dưới mền tóc dày

( Bài Hát Buồn )

 

Trong nỗi cô độc ấy , TTT khao khát  xẻ chia , dù trái tim đã thành hòn đá vô tri tĩnh mịch rỗng tuếch

 

Bạn bè chia tay ném bỏ lại cô đơn

Một mình anh mang nặng

Và chua cay

Vùng biển đen

Mùa hè thiêu đốt cả cô đơn

Em biết không? Em biết không? …

( Sầu Khúc )

 

Hòn đá vô tri tim tĩnh mịch

Biết gì về tình yêu , anh , đâu biết gì về tình yêu

 

Đi đâu ? Em đâu ? Đây một mình anh

Một mình anh tôi mọi lũ một mình

Hoang vu phập phồng trong trái tim rỗng tuếch

( Tặng Vật -1962-1963 )

 

TTT  cô độc giưã quê hương đoạ đày

Tôi ngồi khóc bên bờ sông trôi mãi

Em bỏ đi

Những người thân nhất đều hắt hủi

Giữa xứ sở đau thương tôi chịu đoạ đầy

( Về Quách Thoại )

 

TTT nói Tôi Không Còn Cô độc , và dù đã Tìm Thấy Mặt Trời trong Đêm, nhưng suốt hành trình thơ , TTT ngày càng cô độc và tuyệt vọng

 

Bị xua đuổi khỏi nơi trú ngụ

Hắn làm tên du thủ vong tình

Cùng xứ sở mắc vòng khốn đọa

Trên hoang phế sau đêm thảm họa

( Hắn Rũ Bỏ Ký Ức Và Ra Đi)

 

Căn nguyên cuả nỗi cô độc hiện sinh ấy là gì ?

Ta phải tìm câu trả lời trong bối cảnh thời đại TTT đang sống . Đặng Tiến cho rằng :

“ Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật. “(7) .Nói như vậy phải chăng cũng đồng nhất TTT với những nhà thơ nhà văn Lãng Mạn 1930-1945. Họ là những trí thức tiểu tư sản thất bại trong chính trị ( chẳng hạn Nhất Linh , Khái hưng .. ) , tìm vào văn chương như một phương cách thoát ly , như một sự tự lưà mị chính mình ?

 

Trường hợp TTT , theo tôi là khác. Bối cảnh thời đại TTT sống đã khác rất xa bối cảnh xã hội Việt Nam trước 1945. TTT sinh năm 1936 , đến khi toàn quốc kháng chiến chống Pháp 1946, ông mới 10 tuổi.  Theo Đặng Tiến (8) , những năm 1950  , ông hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế ...Sau kháng chiến , đất nước chia đôi , ông vào Nam . Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt , tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào «nhóm» Sáng Tạo .  1962, bị động viên vào Trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hoá,  «tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch» (1972), cấp bực cuối cùng là đại uý. Sau 1975, ông bị bắt đi học tập, gần mười năm, tại nhiều trại cải tạo miền Bắc. Sau

khi  ra trại ông sang định cư tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1990.

 

Miền Nam những năm sau 1954 , và nhất là từ 1963 trở đi , là một xã hội đầy biến động , đầy  âu lo. Chiến tranh ngày càng ác liệt , nỗi chết trở thành ám ảnh thường trực . Sự sụp đổ , sự băng hoại , sự tan rã là không tránh khỏi  . Nỗi tuyệt vọng bao trùm , phủ lấp những tròng mắt thâm u , tiềm ẩn trong từng hơi thở . TTT không tránh khỏi hoàn cảnh và tâm trạng này. TTT chìm trong ý thức Hiện sinh .Ông không có một lý tưởng để vươn tới , để dấn thân , để cuộc sống có nghiã . Ông không có niềm tin  tâm linh để có thể vác lấy thập giá định mệnh mà vượt qua , ở thời đại cuả ông thượng đế đã chết ( Nietzsche ). Ông cũng không có đủ Bi ,Trí, Dũng  cuả một bản thể tự tại để đương đầu với sóng cuồng bão động , và quan trọng là ông không có được quan hệ máu thịt với dân tộc và cội nguồn để trở về ,

Giữa quê hương ngoảnh mặt làm ngơ  Không còn nơi chốn nào thân thiết” , đắm giạt Làng-quê Không-có-đâu” . Ông sống không có  niềm tin , dù “ đôi khi anh muốn tin( Lệ Đá Xanh ) để rồi sau cùng lại ra đi ,  xa lánh lặng lẽ đìu hiu khuất lấp.

 

Đi    Xa lánh   Như người xưa

lặng lẽ điềm nhiên rảo gót về

bên triền lũng khuất nắng quái hoặcĐạm bạc chiếc bóng đìu hiu  

( Chia Tay – 1990 )  

 

Nỗi buồn sâu thẳm trong tất cả những bài thơ cuả TTT là nỗi buồn cuả hiện sinh quy tử ,

cái chết vội vàng , cái chết tan tành không cưỡng lại được . Cũng là nỗi buồn trước thực tại đất nước .Ông dùng  hình ảnh ẩn dụ để nói về thời đại mình .Ông không dám nói thật sự tàn bạo cuả nỗi chết . Ông  che dấu sự bộc lộ trực tiếp những nghĩ suy về thời cuộc , che dấu sự bi đát thân phận , che dấu  mình để khỏi bị trả thù bởi móng vuốt bóng đêm .Ông  trốn chạy ,ông buông xuôi “ bập bềnh lả theo trời “, mặc định mệnh . Không có tương lai , không có ánh sáng  , chỉ có hoang vu lạnh vắng , chỉ có sợ hãi đớn đau ôm ghì ,chỉ có những hoảng loạn đớn hèn đe doạ được vẽ ra bằng những hình ảnh ẩn dụ : xứ sở mắc vòng khốn đọa ,  trên hoang phế sau đêm thảm họa , giông bão ,  mùa đông dài ác nghiệt, núi nhọn , lưả cháy,  biệt ly , đau thương đoạ đày ,nhục nhằn , chó dữ , những con chó sói , con mắt đen đen đen , tròng mắt ma quỉ soi,   rượt bắt , chập chùng hố huyệt, hấp hối , nỗi chết ,..

Tôi chờ đợi

lớn lên cùng giông bão

Đất nước có một lần

tôi ghì đau đớn trong thân thể

những giòng sông những đường cầy núi nhọn

những biệt ly rạn nức

 

Tôi chờ đợi

phổi đầy lửa cháy

môi đầy thẹn thùng

vục xuống nhục nhằn tổ quốc

( Bài Ca Ngợi Tình yêu )

sợ chó dữ

con chó đói không màu

này một con chó sói

thứ chó sói lang thang

( Phục sinh )

Anh sợ những cột đèn đổ xuống

Sao tuổi trẻ quá buồn …

anh đưa em đi trốn

những dày vò ngày mai

( Dạ Khúc )

 

Mày gặp mày không nhìn nổi ra mày trong bờ bụi

Cơn rượt bắt cuồng cơn hấp hối ngu xuẩn  ở trong luồng thôi thúc dữ

Linh hồn cuả con mắt đen đen đen và sáng như cơn mưa rào đầu muà

Mày ở trong mày hai chân lún và ẩn náu

Và đêm ngã vấp và ngày vỡ toang…

 

Mày còn tấm tặng phẩm , tấm tặng phẩm đớn hèn trên tấm thân mang hiến

Cái chết vội vàng như quả rục cái chết tan tành như tiếng kêu.

( Tặng Phẩm -1962,1963 )

 

Mùa hiu hắt thổi hoang vu quyện

Lòng ta lạnh vắng như cỏ cây…

Như phiến gỗ nặng thả theo nước

Bập bềnh trôi nổi ta về xuôi

Như lau lách mọc chen bờ bãi

Phất phơ tóc bạc lả theo trời.

( Đỉnh Non Xa -Giai phẩm Văn 3.9.1974)

 

TTT ôm ghi lấy đất nước đau thương , cùng chia xẻ vòng khốn đoạ với xứ sở , cùng vục xuống nhục nhằn tổ quốc , cùng xớt chia nỗi chết với bao người , còn hy vọng “rằng anh còn trở về/ rằng anh còn người yêu . Trong nỗi bi thương thê thiết ấy  Thái độ chính trị cuả TTT là gì ?  TTT thấm thía thân phận một dân tộc nô lệ (  Đen ). Thời ấy , người trí thức miền Nam nào cũng đau nỗi đau tủi nhục về thân phận nhược tiểu cuả “ người nô lệ da vàng “ ( chữ cuả Trịnh Công Sơn ) .TTT đứng về phiá những người vô tội chối từ khí giới, phản đối chiến tranh ,  chiến tranh còn những khoảng trống đất hoang ( Chim ), khao khát hoà bình , khao khát một ngày yên vui , đất nước trổ hoa,  người người mừng vui , Hà nội Huế Saigòn ôm lấy nhau nức nở

 

Nhịp ba

Sóng bồi phù sa

Ruộng lúa trổ hoa

Núi cao uốn cây rừng

Nhịp ba nhịp ba nhịp ba

Tình yêu tự do mãi mãi

Đất nước ào ào vỗ nhịp

Triều biển chập chùng

Hà Nội Huế Sàigòn

Ôm nhau nức nở

( Nhịp Ba )

 

Người đọc nghe trong thơ TTT  nhịp đập cuả một trái tim yêu nước không gọi rõ tên , tuy

sâu thẳm nhưng mơ hồ , bởi vì  trước 1975 đất nước còn bị chia đôi , đất nước ông nói đến là miền nào ? Không , đó là một  đất nước trong thể thống nhất , TTT nhìn thấy  Đất nước ào ào vỗ nhịp / Triều biển chập chùng / Hà Nội Huế Sàigòn / Ôm nhau nức nở”

 

Trong viễn cảnh ấy , dường như TTT đã thức tỉnh ? TTT  trở về sự thật , “Rưả sạch mặt mũi lem luốc chùm ảo vọng  “ ,  tự “ bóp cổ  chết gục”  để phục sinh

 

Tôi đứng đấy như con công tôi múa

xoè bộ mã đời mình nũng nịu

như trên chót đỉnh khoe khoang

Tôi đứng đấy những tơ giăng phù phiếm

con nhện rớt hoài

trong màng lưới rách bung

của lời đong đưa trắc nết

( Thầm Nhủ - 1969 )

 

Tan rồi trái cầu không tưởng

Cuộc phiêu lưu chết sững chốn vô cùng

( Tặng Phẩm- 1962,1963 )

 

tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ

trong sạch như một lần sự thật.

( Phục sinh )

 

Linh hồn phục sinh cuả TTT đã ánh lên một chút , ( chỉ một chút thôi vì nó ẩn mật ) nỗi đau  với những con người đau khổ , với quê hương đất nước . Tâm hồn ấy dường như cháy bỏng khát vọng tự do  . Lúc đầu thơ ông vang lên tiếng ca ngợi  tự do chính trị  , sau đó là chuyển sang tư tưởng cuả tự do Hiện Sinh , nhưng TTT chưa buớc chân vào được chân trời tự do hiện sinh ấy , thơ ông chưa đạt tới tầm vóc cuả thơ tư tưởng .Người đọc chỉ thấy thấp thoáng những tín niệm cuả chủ nghiã Hiện Sinh như buồn nôn , tự do ( La Nausée- J.P .Sartre ) ; kẻ xa lạ ( L’Etranger-A. Camus ) ;  sự đánh mất đức tin ( “Thượng đế đã chết “- Nietzsche )  . TTT muốn thơ mình  là tiếng nói là tiếng khóc  cuả những con người vô tội yêu tự do,  là tiếng thơ là tiếng cười cuả Việt Nam ngày mai , nhưng sẽ chẳng bao giờ TTT đạt được uớc nguyện ấy . Đó là tất cả bi kịch cuả TTT .

 

Anh nhớ em cùng một lúc với thành phố

với những con đường anh đi qua một lần

anh nâng niu cuốn sách nói đến cách mạng

nói đến người  tâm hồn trái tim tự do

( Liên , Những bài thơ tình thời chia cách )

 

Nhịp ba

Tình yêu

Tự do

mãi mãi

Tình yêu tự do mãi mãi

Tình yêu tự do

mãi mãi anh ơi

( Nhịp Ba )

 

Tôi chờ đợi

một người  không

nhiều người

ở thành phố thiếu thốn

ở làng mạc đoạ đầy

tôi là tiếng nói là tiếng khóc

những người bỏ đi hẹn trở về

những người mím hơi thừa chịu đựng

tôi chờ đợi

tôi là tiếng thơ là tiếng cười

mai Việt Nam hỡi mai Việt Nam

( Bài ca ngợi tình yêu )

 

Sự sống còn một người

Sự sống còn nhiều người

Những người vô tội

Nhân danh

Tình yêu tự do  người

Tôi được quyền kêu gọi  

Những người đã chết xin có mặt

Những người còn sống xin giơ tay 

( Nhân Danh )

 

anh hứa trở về không đối diện với thù

giòng sông chỉ còn tiếng sóng vỗ

cười tung lồng ngực chứa chan

( Liên , Những bài thơ tình thời chia cách )

 

cuộc sống phải thừa như không khí

cuộc sống phải thừa như sớm mai

xin trao thi sĩ vòng hoa tặng

chúng ta đã thắng giữa cuộc đời

( Gửi Quách Thoại )

 

Nhân vật em trong thơ TTT  có thể là cái phao bấu víu sau cùng cuả tâm hồn ông , cũng

là người ông chia xe nỗi niềm . Giọng thơ nói với em là giọng tâm tình chia xẻ , như là bám víu , như là hy vọng trong tuyệt vọng , giọng buồn biền biệt . Thực ra đó là cách TTT bày tỏ  lòng sầu héo, nỗi buồn rưng rưng  , sự sợ hãi bị bóp chết trong tuyệt vọng trần truồng

 

Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai

(nếu đời người không có những sớm mai)

anh trở dậy

đọc thơ Nguyễn Du

những câu lục bát buồn rưng rưng  cuối đường của một ngày

( LIÊN, NHỮNG BÀI THƠ TÌNH THỜI CHIA CÁCH )

 

Anh nằm trên đồi

Trời chiều ôm dưới ngực

Gió thổi hơi nồng trưa xa khuất

Trưa kia trời cháy đốt trên lưng

Những bãi cỏ khô trơ

Như mắt mở

Đêm trôi dàn

Trên ngánh sông dài như chẳng có

Như cánh tay trườn

Mai Hoa Mai Hoa em

( Tặng Phẩm - 1962 )

 

Phải làm mới tình yêu

Coi chúng ta là những người thứ nhứt

Trên trái đất này biết yêu nhau

Để những cặp tình nhân khác bắt chước

Để con cái sau này không khổ đau.

( Bài Thơ Cuả Tháng Giêng )

 

Đêm về khuya tình đã vắng như màn trời

Này em đan cho anh những ảo tưởng

Với ngây thơ nào em còn sót…

Vàm sông nước xoáy như tiếng cười thầm

Ở sau lưng ở trước mặt

Anh thả người trôi nổi

Em biết không? Em biết không? 

Anh đốt dần xác thịt như cành nhọn

Giữa chiều mùa đông ở đây trong cốt tuỷ

Tuyệt vọng trần truồng

( Sầu Khúc )

Thơ Ở Đâu Xa  đuợc TTT viết trong thời gian ông ở trong trại cải tạo  có khuynh hướng tư tưởng , bút pháp và thái độ sống khác hẳn .Theo Phạm Kiều Tùng ( 9 ),  thơ TTT sau 1975 là một giai đọan sáng tác khác : “… giai đoạn sáng tác cuối đời của anh, một giai đoạn tạm gọi là giai đoạn “không còn muốn kể nữa”, vì “không có gì đáng kể”?” . Phạm Kiều Tùng căn cứ vào bài học cuả TTT ghi trong cuốn sổ tay mà trước khi sang Mỹ định cư , TTT đã gửi cho ông :

 

Bài học Đạo Đức Kinh:

Như thể không có sự gì xảy ra, đáng kể; ngoài các câu được viết.

Lời không của ai, không nói với ai.

Cùng một lúc mở và đóng, ở ngoài và ở trong.


Xem tiếp phần 3

 

 

Bùi Công Thuấn
Số lần đọc: 4079
Ngày đăng: 06.12.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Gõ đời vào phím cô đơn - Nguyễn Đức Thiện
THANH TỊNH: Mòn Mỏi... Nhớ Huế! - Lê Xuân Quang
Ngọn gió lang thang về đâu . . . - Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Thơ Lục Bát , Một cõi trời mênh mông-1 - Bùi Công Thuấn
Thơ Lục Bát , Một cõi trời mênh mông-2 - Bùi Công Thuấn
CHÍNH HỮU: Ngọn Đèn Đứng Gác - Đã tắt! - Lê Xuân Quang
Thơ Nguyễn Lương Vỵ - Một tiếng gầm tịch liêu - Hồ Ngạc Ngữ
Nhụy Nguyên LẬP NGÔN QUA “LẬP THIỀN”* - Nguyên Hào
Chuyện tính mùa tạp kỹ * - Một bài tập lập dị có ý đồ và khuynh hướng hậu hiện đại. - Dư Thị Hoàn
Thanh Hoa và những truyện ngắn đầy suy tư về thế thái nhân tình - Triệu Xuân
Cùng một tác giả
Tiếng kèn sắc-xô (truyện ngắn)
Hạnh (truyện ngắn)
Về đâu hoa phượng (truyện ngắn)
Ở nơi băng tuyết (truyện ngắn)
Giải hạn (truyện ngắn)
Tiếng hát ru (truyện ngắn)