Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.103
123.230.022
 
Thuốc đắng-2
Hư Thân

Thế rồi! Khởi đầu bằng những cơn buồn không duyên cớ, điểm thêm tiếng thở dài thườn thượt, nàng chuyển sang giai đoạn than thở bâng quơ: "Đời tôi khổ quá!", "Số tôi chịu nghèo thôi!", "Sao số người ta sướng quá!!!". Giá Vĩnh Hảo chận đứng ngay, như những kẻ vũ phu thô lỗ thì hữu hiệu, đằng này, chàng quen nhẫn nhục, nhận lỗi mình kém cõi không làm giàu được cho vợ vui lòng, nên chỉ biết năn nỉ, nuông chìu…, điều đó, chỉ làm cho Bội Ngọc thêm khinh hờn, cho rằng chồng mình nhu nhược, thiếu chất đàn ông. Lần lần, Bội Ngọc trách móc nặng nhẹ chồng, khinh khi chàng là thứ nghèo đói cù bơ cù bấc trong chùa, được gia đình nàng ban ơn dạy cho nghề thuốc, mua cho dược phòng nhưng bất tài chẳng làm nên trò trống gì!!!

 

Trước kia, Bội Ngọc thờ kính Vĩnh Hảo như thần tượng vì ngày ấy nàng là đệ tử, một kẻ chịu ơn, còn Vĩnh Hảo là một ân nhân cao quí, một vị thầy khả kính. Thầy càng đạo đức thánh thiện thì đệ tử càng kính phục. Bây giờ thì khác, Vĩnh Hảo là chồng, Bội Ngọc là vợ. Vợ nhìn chồng khác hơn đệ tử nhìn thầy. Nàng không ước mơ ông chồng mang đức thánh thiện kè kè vào phòng ngủ hay ở chốn thương trường. Nàng chỉ thực sự cần một gã đàn ông : tục tằn dâm dật nơi phòng the càng tốt, mà lưu manh gian xảo ở chốn kinh doanh càng hay. Vĩnh Hảo là một ông thầy tu khả kính, nhưng chỉ là một người chồng "cù lần", vụng về khờ khạo. Do đó thần tượng dĩ nhiên phải sụp đổ.

 

Vĩnh Hảo tuy chiều chuộng vợ, nhưng hạnh nguyện vẫn không quên. Khi cần giúp người vẫn giúp, mặc dù, mỗi lần Bội Ngọc biết, nàng giận dỗi rầy la, rồi bồng con bỏ về quê mẹ cả tháng trời. Những lúc nàng vắng nhà, Vĩnh Hảo sống thoải mái, khám bệnh giúp người không bị kềm kẹp. Nhưng đêm đến chàng lại vời vợi buồn, vì gian nhà trống trải quá. Gần nàng thì khổ, mà xa nàng thì lại nhớ nhung. Từ Qui Nhơn về, thỉnh thoảng Bội Ngọc mang theo vài tin tức của Thanh Lương tự. Ngay sau khi trục xuất Vĩnh Hảo, sư phụ đã triệu Vĩnh Tướng về giao ngôi trụ trì, để vân du về phương Nam hành đạo. Hai sư đệ Vĩnh Quang, Vĩnh Minh thì ẩn tu tại Ngũ Hành Sơn. Sư huynh Vĩnh Tướng quả thật tài trí hơn người. Sư huynh chánh thức thành lập võ phái Thanh Lương, để thu nhận môn sinh cư sĩ truyền võ công. Chẳng bao lâu, phong trào luyện tập quyền thuật được phát triển rần rộ khắp vùng, gia đình nào cũng gởi con em đến Thanh Lương tự để thụ giáo. Chỉ mấy năm, môn sinh đệ tử đã lên đến mấy ngàn người. Dựa vào uy thế quyền thuật, sư huynh lại lôi kéo phụ huynh các đệ tử vào phong trào học Phật tu nhân, rồi kiến tạo Thanh Lương tự thành một đại tùng lâm hùng vĩ, nổi tiếng một thời. Nghe chuyện Thanh Lương tự, rồi ngẫm phận mình, Vĩnh Hảo thật hổ thẹn trăm bề. Tấm thân hoàn tục chẳng ra gì, lại còn phải chịu trăm cay nghìn đắng với cô vợ hỗn hào. Đôi lúc, Vĩnh Hảo nghĩ đến giải pháp bỏ đi, nhưng có lẽ do oan gia từ kiếp nào, chàng không thể dứt khoát được. Chỉ cần nàng ngưng chửi, là Vĩnh Hảo vẫn thấy nàng khả ái, dễ thương muôn đời. Dù thế nào, thì Vĩnh Hảo cũng còn có bé Bội Lan bên cạnh. Bé không biết gì, nhưng bé mm mm dễ thương quá, bao giờ cũng giúp cho chàng những phút giây hoà ái nhẹ nhàng. Thế nhưng định mạng khắt khe lại cướp mất niềm vui của chàng. Được mẹ bồng đi thăm ngoại về, Bội Lan nóng sốt dữ dội. Bé bị bệnh đau màng óc mấy ngày nhưng Bội Ngọc không biết. Khi đưa cho Vĩnh Hảo khám bệnh, thì mọi sự đã muộn màng rồi. Bội Lan chết thì Bội Ngọc lại dẫy nẩy đổ lỗi cho chồng ác độc, không thương con ghẻ, nên không tận tình chạy chữa.

 

Đầu Xuân Đinh Mão, Vĩnh Hảo đang thẩn thơ một mình, - Bội Ngọc về Qui Nhơn, còn thân chủ kiêng cữ ngày Tết không đến – thì bỗng thấy viên tri huyện Đồng Xuân, hằn học dẫn toán lính vào nhà. Vĩnh Hảo đã từng trị bệnh cho quan huyện. Hai người hàn huyên tương đắc như bằng hữu, không ngờ ngày nay quan lơ là như người xa lạ. Quan huyện hạ lệnh cho lính lục soát nhà Vĩnh Hảo thật kỹ. Lính mở tung các tủ, rồi đến các hộc thuốc, không chừa một chỗ nào. Khi khám đến hộc đựng hộp thuốc huỳnh bá, bỗng tìm được một gói lạ, nằm dưới mớ thuốc. Chiếc vòng cẩm thạch vô giá màu xanh da trời ẩn hiện tượng Quán Thế Âm được viên tri huyện xem như bảo vật phù hộ gia đình ông, sao lại ở ngăn tủ này? Nguyên khi Vĩnh Hảo trị bệnh cho quan, quan cao hứng đuổi lính ra ngoài, để mở ngăn tủ bí mật, lấy bảo vật ra khoe với Vĩnh Hảo. Chiếc vòng đó, viên tri huyện giữ kín, không cho người ngoài xem. Ngay như Bội Ngọc, tuy được chồng kể lại, ước ao được thấy một lần mà chưa toại nguyện. Ngày Tết, mở tủ thấy báu vật biến mất, quan huyện nghĩ ngay đến Vĩnh Hảo, người duy nhất biết nơi dấu của, nên tức tốc khám xét. Vĩnh Hảo bị bắt quả tang về tội trộm báu vật, tang chứng rõ rệt không cần phải điều tra lâu dài. Viên quan, giận kẻ có học mà tham lam, nhứt là dám nhè quan mà vuốt râu hùm, nên sẵn có vài vụ trộm tại Phú Yên mà thủ phạm chưa điều tra được, quan cũng khảo tra Vĩnh Hảo bắt chàng nhận tội. Buộc cho tội nào chàng cũng không từ chối, nên chàng bị hình phạt trượng nặng nề, rồi bị án lưu đầy xuống Phan Thiết để làm tù khổ sai. Bội Ngọc giận chồng gây tai tiếng, bán nhà về Qui Nhơn, rồi nhờ người nhắn tin cho Vĩnh Hảo biết rằng nàng không nhìn nhi gì đến tên chồng lưu manh trộm cướp nữa.

 

*

Nếu không nhờ đã luyện công từ nhỏ, Vĩnh Hảo khó lòng chịu đựng nổi những trận đòn bộng dành cho kẻ phạm trọng hình. Thân thể đầy thương tích, máu mủ ghê tởm, đói lạnh thiếu thốn, lại không thân nhân tiếp tế, chăm sóc, tưởng là bất hạnh, nhưng chính khổ đau tột cùng đó lại là toa thuốc thần, khiến mối tình nam nữ quấn quít tưởng không bao giờ dứt được, trong khoảnh khắc bỗng nguội lạnh như đống tro tàn. Chuyện xã hội bên ngoài, chuyện quá khứ xa gần, nhà thuốc, con bệnh… có bận tâm cũng bất lực. Do đó, Vĩnh Hảo chủ trương ở tù thì cứ thuận theo hoàn cảnh tù tội mà tu. Nơi nào thì cũng có thể giữ được chánh niệm và hành được hạnh nguyện Dược Vương. Tù nhân, dù oan hay ưng, đều ở trong hoàn cảnh hoang mang, sợ hãi, khổ sở tận cùng. Họ cần được săn sóc, an ủi như những đứa con thơ cần mẹ. Vĩnh Hảo kề cận chia ngọt xẻ bùi với họ, rồi tùy cơ, giảng dạy họ về thuyết nhân duyên, về tứ diệu đế… để vạch cho họ con đường tu tập. Lần lần, Vĩnh Hảo khám phá ra là chàng quả thật có nhân duyên lành, nên mới bị tù đày. Ở tù, giữ chánh niệm thật dễ, vì ngoài "cái khổ", mà kẻ tu hành coi là bạn hữu nhắc nhở mình tu tập, hành giả không bị ngoại cảnh chi phối, không có danh lợi, xa hoa, phong lưu, phù phiếm quyến r mình. Đến Phan Thiết, thân phận kẻ lưu đày phải lên rừng đốn củi làm than, cuộc sống bớt phần gò bó. Hai năm sau, nhân lễ Vu Lan Canh Ngọ, Vĩnh Hảo và các bạn tù được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban lệnh ân xá. Được tự do, Vĩnh Hảo bây giờ, thấy không cần phải tìm chốn non cao để chuyên tu thiền định. Chàng sống bình thường không chủ định, gặp chuyện nên làm thì tùy thuận mà làm. Làm xong lại xả bỏ ngay không chất chứa giữ gìn. Do đó, khi thì Vĩnh Hảo lên rừng đốn củi, khi làm thuê, làm mướn, chèo đò… để lấy tiền độ nhựt và giúp bà con nghèo. Chàng lại lêu lỏng giao du với đủ hạng cùng đinh, kết bạn với cả bọn trộm cắp, đĩ điếm mà không úy kị chi cả.

 

Nghiệp thầy thuốc của Vĩnh Hảo còn nặng. Gặp người bệnh, Vĩnh Hảo đương nhiên phải chữa trị. Thế rồi, người nầy đồn người khác, số thân chủ tăng dần, đến nổi Vĩnh Hảo không thể lang thang không cửa không nhà được nữa. Đúng vào thời điểm nầy, thì Vĩnh Hảo được rước đi trị bệnh cho sư Thiện Hạnh, trụ trì chùa Tịnh Độ, gần khu phố chợ Phan Thiết. Thoát cơn bệnh hiểm nghèo, sư Thiện Hạnh cảm động, đáp ứng hoài bảo mở phòng mạch phước thiện của chàng. Sư cung cấp phòng ốc, nhân lực lẫn tài lực cho phòng mạch miễn phí nầy. Để có phương tiện giúp đỡ dân nghèo, Vĩnh Hảo nghiên cứu thuốc Nam, hầu có thể tận dụng dược thảo địa phương, dễ kiếm và rẻ tiền. Là một y sĩ phối hợp được hai nền thuốc Bắc và thuốc Nam, lại tinh thông thuật châm cứu, nên chẳng bao lâu, Vĩnh Hảo nổi tiếng là thần y. Bệnh nhân từ các tỉnh lân cận, cũng đua nhau tìm đến nhờ chữa trị. Vĩnh Hảo bắt đầu truyền dạy y học cho các thầy, các chú tu sĩ, để họ tiếp tay điều trị bệnh nhân. Nhờ có người đỡ đần tạm thay phòng mạch, Vĩnh Hảo có thể thư thả lang thang trong rừng, nghiên cứu dược thảo. Do đó, chàng khám phá nhiều loại cây có giá trị y học, cũng như tìm được những loại cây trước đây phải nhập cảng từ phương Bắc rất đắt giá.

 

Đầu Xuân Quí Dậu, thừa lúc vắng bệnh nhân, Vĩnh Hảo lại thong thả vào rừng. Đến bên suối Rắn, Vĩnh Hảo chợt có ý nghĩ thử đi ngược lên đầu nguồn, tìm vài bụi ráng dương xỉ, tóc tiên… để làm thuốc. Vùng suối này, cây cối rậm rạp, đá dốc trơn trợt, nước chảy siết, lại có tin đồn đây là nơi ẩn trú của cặp rắn thần; mồng đỏ như mồng gà, nên ít người léo hánh. Vách đá lổm chổm làm cho giòng nước tung toé, đuổi theo những đàn bướm chập chờn đùa giỡn. Trên cành cây rậm lá tiếng chim ríu rít vui mừng chào đón ánh sáng ban mai. Dọc theo bờ suối, những bụi cỏ dại cũng đua nhau khoe chùm hoa bé bỏng xinh xinh. Bất ngờ, Vĩnh Hảo lại thấy xuất hiện gian nhà cỏ bé nhỏ, cất dựa bên tảng đá. Vị ẩn sĩ vô danh nào chọn được chốn thơ mộng này để trú ngụ, quả là người biết hưởng thú thanh nhàn. Từ xa, Vĩnh Hảo thoáng thấy dáng dấp một cụ già, - một vị sư già, - đang lom khom chăm sóc cành hoa dại. Lạ quá! Vĩnh Hảo dụi mắt mấy lần, mà vẫn tưởng mình đang chiêm bao, vì vị sư già đó lại là sư cụ Đạt Bổn, ân sư của chàng.

 

Mừng mừng, tủi tủi, Vĩnh Hảo quì dưới chân thầy, nước mắt chảy dài bên má, thổn thức:

- Thưa thầy! – chàng nhớ mình là đệ tử bị thầy đuổi khỏi sơn môn, nên không biết phải thưa hỏi cách nào đành lặng yên – 

- Vĩnh Hảo con! 

- Dạ! Thầy đã tha tội con! - Vĩnh Hảo lộ vẻ vui mừng- 

- Thầy có từ bỏ con đâu! Thầy đợi con ở đây từ lâu. 

Thầy mỉm cười. Vĩnh Hảo cũng mỉm cười. Cả hai nhìn nhau thật lâu, như để thay thế cho những lời vô tận của 10 năm xa vắng. Sư phụ nhìn cảnh vật trước mắt chăm chỉ chiêm ngưỡng như người khách lạ mới thấy lần đầu, rồi đột nhiên hỏi:

- Con thấy cảnh vật như thế nào? 

Vĩnh Hảo vừa thầm nghĩ phong cảnh tuy đẹp nhưng nếu giòng suối có thêm bụi trúc, trước thảo am có cụm mai vàng, thì mới hoàn toàn tuyệt mỹ, nên phát biểu:

- Thưa thầy! Đẹp lắm! Nhưng nếu có đựơc bụi trúc và cành mai thì mới hoàn toàn. 

Thầy bỗng ngâm nga :

- Đâu chỉ hoa vàng và trúc biếc 

 Rong rêu cỏ dại cũng là chân

Vĩnh Hảo bỗng giật mình sửng sốt. Pháp kệ của sư phụ ngắn mà rõ ràng. Cổ đức dạy "hoa vàng, trúc biếc" tượng trưng cho chân như, nhưng phải hiểu là vạn vật mọi loài, dù hèn mọn nhỏ nhoi: trùng, kiến, rong rêu, cỏ dại… cũng biểu lộ chân như thường hằng:

 

Tình dữ vô tình

Đồng viên chủng trí

 

Ta đã đọc tụng hàng ngày, đã hiểu vạn vật đều ảnh hiện từ nguồn sinh động của biển chân tâm diệu minh, của A Lại Da Thức, từ vô thủy vô chung vẫn như như không khác, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cớ sao ta lại phân biệt phải là hoa vàng? Phải là trúc biếc? Tam thiên đại thiên thế giới bỗng nhiên rung động rồi sụp đổ tan tành để biến hiện thành biển quang minh chói chang rực rỡ. Thời gian ngưng động không biết đến bao giờ, nhưng khi Vĩnh Hảo từ chốn vô sai biệt trở về chốn sai biệt, thì vẫn thấy mình đứng bên thầy trước am cỏ.

 

Đại sư mỉm cưởi. Vĩnh Hảo cũng mỉm cười.

- Ta trao truyền ngươi am cỏ này. Hãy nhận lấy. Ta đi đây. – đại sư đột ngột từ giã.

- Xin thầy cho con được theo hầu thầy. - Vĩnh Hảo van nài. 

- Không! Ta có duyên với miền Nam cần hành hoá. Con còn nghiệp ở đây, nên ở lại. 

Tôn kính thầy là bậc thần tăng, tuỳ thuận hành đạo khó đoán, khó lường, Vĩnh Hảo đành vâng lệnh và ngậm ngùi nhìn bóng thầy khuất dần ở rặng cây xa. (Đại sư Đạt Bổn, sau đó về miền Nam hoằng hóa, độ rất nhiều đệ tử. Đại sư đã kiến lập ngôi chùa THIÊN TRƯỜNG tại Song Phố, Gia Định năm ẤT Hợi, 1755).

 

Vào thảo am, Vĩnh Hảo khám phá thủ bút của thầy lưu lại. Vách trái thầy viết "PHÁP NHẪN VÔ SANH", hàm ẩn con đường tu tập cá biệt của Vĩnh Hảo, nương hạnh nhẫn nhục ba la mật để ngộ lý vô sanh, nói chung, đó là con đường TRỞ VỀ, từ SỰ ngộ LÝ, từ hạnh nguyện ĐẠI BI để thể nhập ĐẠI TRÍ, tức thể tánh BÁT NHÃ. Vách phải thầy ghi "VÔ SANH PHÁP NHẪN", là con đường tu tập nương lý vô sanh để đạt được hạnh nhẫn nhục ba la mật, cũng là con đừơng TRỞ RA, từ LÝ đạt SỰ, tức từ ĐẠI TRÍ, thể tánh BÁT NHÃ để phóng chiếu ra thế giới sai biệt hành hạnh ĐẠI BI, diệu dụng của tâm, để cứu độ chúng sanh. Đó là con đường song chiếu, thầy nhắc nhở chàng tiếp nối hành trì không ngưng nghỉ, để đi đến chỗ tuyệt cùng LÝ SỰ viên dung, ĐẠI TRÍ ĐẠI BI không khác.

 

*

Vĩnh Hảo bàn giao lần lần trách nhiệm tại phòng mạch chùa Tịnh Độ cho các tu sĩ đảm nhận, hầu thường xuyên cư ngụ tại thảo am. Thảo am "Vĩnh Hảo", danh từ do các người đi rừng quen gọi, là nơi Vĩnh Hảo dùng làm chỗ chứa dược thảo, do chàng vào rừng mang về, xắt, sấy công phu để cung cấp cho chùa Tịnh Độ. Nơi đó, cũng là trạm dừng chân của những thợ rừng, đến xin thuốc trừ bách độc, ngừa trị rắn rít…

 

Tàn đông năm Ất Hợi, trong khi Vĩnh Hảo đang chăm sóc cành sim rừng trên bàn thờ Phật, thình lình Đại sư Vĩnh Tướng xuất hiện. Vĩnh Hảo thầm phục sư huynh, võ công thăng tiến bội phần, khinh công đã tuyệt kỷ nên bước khoan thai trên sàn nhà ọp ẹp vẫn không gây tiếng động. Vĩnh Hảo mừng rỡ đón chào nhưng chưa kịp nói gì, thì Vĩnh Tướng đã lên tiếng:

- Vĩnh Hảo! Ta báo tin ngươi hay. Ta đã được Chúa thượng triệu về kinh sư thuyết pháp Kinh

 

Lăng Già, rồi nhân dịp đó, sẽ tôn ta là quốc sư nước Việt. 

- Kính mừng Đại sư. - Vĩnh Hảo trên danh nghĩa là phạm giới tăng, đã hoàn tục, không dám xưng hô huynh đệ với Vĩnh Tướng - , công nghiệp của đại sư đã làm sáng tỏ sơn môn của thầy tổ. 

 

Ngừng một chút, chưa thấy Vĩnh Tướng lên tiếng, Vĩnh Hảo thưa hỏi:

- Thưa đại sư đến thăm đệ tử, có điều chi dạy bảo? 

- Dĩ nhiên là có việc! Vĩnh Hảo! Ta cần nhờ ngươi việc này. 

- Thưa đại sư. Đệ tử sẵn sàng tuân lệnh thi hành, dù phải hy sinh tính mạng cũng không từ nan. 

- Khá lắm! khá lắm! Vĩnh Hảo! Ta thực sự chỉ cần ngươi chết. Ngươi hãy uống viên "Tử hoàn đan" nầy là xong, hậu sự đã có ta, thay ngươi lo mọi việc.

- Đệ tử xin sẽ tuân lệnh, nhưng đệ tử xin phép được hỏi đại sư một việc. Có phải Bội Ngọc đã chết rồi chăng? 

- Khá lắm! Khá lắm! Ngươi biết rõ mọi hành vi của ta. Chuyến đi này, quả thật không uổng công. Đúng vậy! Vĩnh Hảo ngươi phải biết, ta sẽ là Quốc sư thì những người biết câu chuyện ngày trước không thể sống sót được. 

 

Nguyên Vĩnh Tướng tằng tịu với Bội Ngọc lỡ mang thai bèn tìm cớ "ẩn tu" để trốn tránh trách nhiệm. Trước khi đi, còn xúi tình nhân đổ vạ cho Vĩnh Hảo, đồng thời cũng gợi chuyện bàn bạc Luận Bảo Vương Tam Muội hầu khuyến khích Vĩnh Hảo nhận chịu oan ức. Vĩnh Hảo bị trục xuất. Vĩnh Tướng được gọi về trụ trì. Sư phụ vừa vân du, thì Vĩnh Tướng liền tìm cách đuổi hai sư đệ Vĩnh Quang, Vĩnh Minh để có thể tổ chức tu vịên theo ý hướng của mình. Nhờ khéo léo, biết phô trương đạo đức, tu "ồn ào hình thức" phù hợp với đám đông, lại biết dùng quyền thuật làm phương tiện cổ động, nên sớm thành công. Danh vị cao, tiền bạc lắm, đại sư rỗi rnh đâm ra chạnh nhớ người tình xưa. Gặp lúc Bội Ngọc cắn đắng chồng về tiền bạc, nên cả hai có cớ để tâm đầu ý hiệp lén lút đi lại với nhau. Con chết, vừa nghi Vĩnh Hảo xấu bụng không tận tình chạy chữa, vừa cũng muốn được tự do ngoại tình, nên theo chỉ dẫn của Bội Ngọc, Vĩnh Tướng đã xử dụng khinh công tuyệt đỉnh của mình để vào dinh tri huyện trộm báu vật vu oan cho Vĩnh Hảo. Danh tiếng của Vĩnh Tướng vang dội đến kinh sư, Vĩnh Tướng được triệu thỉnh để tấn phong Quốc sư nước Việt. Tuyệt đỉnh danh vọng khiến đại sư vô cùng sung sướng. Nhưng vốn tính cẩn thận, đại sư lo nghĩ đến thanh danh của vị đại quốc sư, nên đành giết Bội Ngọc để diệt khẩu. Vĩnh Hảo vốn tu hạnh nhẫn nhục, không lưu tâm đến lỗi người khác, nên không dám nghĩ đến nguyên nhân hậu quả của việc gì, nhưng khi Vĩnh Tướng báo tin được làm quốc sư, thì tất cả các sự kiện trên bỗng hiện rõ ràng trước mắt.

- Đệ tử chết thật không ân hận, - Vĩnh Hảo thở dài rồi tiếp – nhưng Bội Ngọc thì… 

 

Đại sư bỗng giận dữ :

– Hừ! ngươi chết không oán hận gì là phải, bởi trăm điều tội lỗi phát xuất từ nhà ngươi. Ta chắc chắn sẽ kế vị trụ trì, thì ngươi lại dở trò đạo đức nịnh bợ thầy, nên thầy loại ta để cử ngươi. Ngươi làm cho ta đau khổ, phải tìm quên nơi Bội Ngọc. Ngươi đã khoe khoang học hạnh nhẫn nhục, mà còn tham dâm giựt vợ ta lại làm chết con ta, thì trách chi ta đã xuống tay độc ác. 

 

Dù biết rõ hành động của Vĩnh Tướng, lòng tôn kính của chàng đối với đại sư vẫn không suy giảm. Chàng thầm nghĩ, Vĩnh Tướng đối với chàng cũng ví như một viên "THUỐC ĐẮNG", như một vị bồ tát hành động trái nghịch để tạo nghịch cảnh cho chàng tu hành. Viên thuốc đắng đó đã giúp chàng trị được các bệnh nan y : ngã chấp, ái dục… và cũng đã mở cửa ngõ cho chàng lập hạnh. Công đức của đại sư Vĩnh Tướng đối với chàng thật vô biên. Vĩnh Hảo trang trọng quì lạy Vĩnh Tướng để cảm tạ.

- Thưa đại sư! Đệ tử cả đời làm thuốc, bào chế dược loại trị bách độc, rắn rít độc trùng đều công hiệu. Xin đại sư giữ chai thuốc nầy để cứu người và cũng để phòng thân… 

Vĩnh Tướng dằng lấy chai thuốc quăng thật xa, cười ngạo nghễ :

- Hừ ! thứ thuốc vô dụng này có đáng gì để ta phải bận tâm.

 

Thấy không còn gì để nói. Vĩnh Hảo uống viên thuốc độc, rồi chấp tay ngồi kiết già, niệm Phật. Chờ một lúc cho Vĩnh Hảo thấm thuốc, Vĩnh Tướng an lòng tung tăng rời bước. Bỗng nhiên có tiếng đại sư la lớn: "Rắn! Trời ơi! Rắn! Vĩnh Hảo hiền đệ cứu ta với!". Tiếng la nhỏ dần rồi ngưng bặt.

 

Hạnh nguyên cứu người vẫn theo đuổi Vĩnh Hảo đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Dù tâm trí vẫn tỉnh táo, xác thân đã ngấm thuốc tê cứng, Vĩnh Hảo không đi được, chàng chỉ có thể lết lần đến cầu thang, rồi té lăn c xuống đất. Cố gắng lết lần đến bên Vĩnh Tướng, nhìn vết máu bầm sùi bọt dưới chân đại sư, Vĩnh Hảo biết người bị rắn mai gầm cực độc mổ. Không còn thuốc rắn nữa, không có phương pháp nào điều trị khác hơn, Vĩnh Hảo tức khắc dùng miệng nút vết thương gớm ghiếc. Nghĩ đến tánh mạng của Vĩnh Tướng đang nguy ngập, Vĩnh Hảo nút nọc độc không ngừng nghỉ, và cũng đành phải nuốt chửng từng ngụm máu tanh hôi để tiết kiệm thời giờ. Bị viên thuốc độc hợp với nọc rắn tàn phá tạng phủ, Vĩnh Hảo kiệt quệ nhanh chóng. Mỗi lần nút máu, chàng phải vận dụng toàn lực còn lại, làm chấn động cơ thể, cảm giác như trăm ngàn mũi dao nhọn thi nhau đâm xé ruột gan. May mắn máu vết thương Vĩnh Tướng lần lần tươi đỏ, rồi hết bầm hẳn. Vĩnh Hảo lộ vẻ hoan hỉ  thì cũng vừa kiệt sức gục đầu bất động.

 

Hai người đệ tử của Vĩnh Tướng, được lịnh chờ đợi gần đó, nghe tiếng kêu la cầu cứu của thầy, vội chạy đến. Thấy thầy nằm bất tỉnh bên cạnh một tên "ăn mày rách rưới", họ vội ôm xác thầy đem về tìm phương cứu chữa.

 

Vĩnh Hảo tay chân cúng đờ, nhưng thần trí vẫn tươi tỉnh. Chàng mỉm cười, nguyện thân xác mình, sẽ là một THANG THUỐC CUỐI CÙNG, một món thuốc trị đói, cúng dường cho muôn thú. Thế rồi đại sư từ trần, mà hạnh nguyện "Dược Vương" bao la của Người muôn đời như vẫn từ bi tỏa rộng. Đúng theo bản nguyện của đại sĩ, xác thân Người được muôn thú xâu xé, các loại côn trùng đục khoét phần thịt gân nhỏ nhít dính xương, rồi đến các loại vi trùng cực nhỏ cũng dự phần rút rỉa tủy óc còn sót lại. Chiếc đầu lâu rơi tòm xuống nước, trong hóc hẻm sâu hoắm, cũng là nơi nương tựa một thời gian cho vài con cá nhỏ. Xương trắng sau cùng rồi cũng thành cát bụi, nhưng hạnh nguyện của người vẫn nguyên vẹn không phai.

 

*

Vĩnh Tướng được đệ tử cõng về Qui Nhơn thang thuốc. Dù được Vĩnh Hảo nút vết thương, song một ít nọc độc vẫn len lỏi vào tạng phủ, khiến đại sư bị bán thân bất toại, thần trí nửa tỉnh nửa mê, rên la từng cơn. Bệnh trạng lạ lùng, nên tất cả lương y đều thúc thủ. Sau cùng, các đệ tử nghe tiếng đồn về vị thần y ngụ tại Vĩnh Hảo am bên giòng suối Rắn, vội vã đưa thầy đến điều trị. Đến nơi, Vĩnh Hảo am đã hoang vắng tiêu điều. Đang lúc tuyệt vọng, đại sư lại rên rkêu gào khát nước. Đệ tử cho người uống nước suối, không ngờ cơn đau giảm dần, thần trí tươi tỉnh, dù bệnh bán thân bất toại không thuyên giảm. Nước suối biến thành thần dược, được đại sư luôn giữ bên mình, để sẵn sàng chận đứng những cơn đau nhức điên cuồng đột ngột xuất hiện.

Người dân bắt chước đại sư Vĩnh Tướng, khi có bệnh cũng tìm đến Vĩnh Hảo am, uống ngụm nước suối để được lành bệnh. Suối Rắn, từ đó được người dân quen gọi là Suối VĨNH HẢO, muôn đời chuyên chở hạnh nguyện "Dược Vương" của vị đại sĩ, xả thân mình để trị bệnh cho chúng sanh.

 

Tháng 5. 1988

Cước chú: 
1/ Năm hạ về trước tinh chuyên giới luật, năm hạ về sau tuỳ nghi xin học tham thiền.
2/ Cụ túc giới: Tỳ kheo giới.
3/ Mười điều tâm niệm của Luận Bảo Vương Tam Muội: 
Điều 10: Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa xả.
Bởi vậy Đức Phật dạy:
Lấy oan ức làm cửa ngõ của đạo hạnh.
4/ Bố thí ba la mật được phân ra tài thí, pháp thí và vô úy thí (bố thí cái không sợ). Tác giả dùng chữ tài dược, pháp dược và vô uý dược, thật ra cũng chỉ nhắm ý nghĩa bố thí tài, pháp và vô úy.

Hư Thân
Số lần đọc: 2185
Ngày đăng: 07.12.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Xôn xao nắng chiều - Đổ Thị Hồng Vân
Bảy sắc cầu vồng - Trần Văn Bạn
Trái tim con rồng đá - Trần Trung Sáng
Hà Chính - Vũ Ngọc Tiến
Song nguyệt - Trần Lệ Thường
Bắt chồng - Đỗ Trọng Phụng
Lưỡng tính - Trần Văn Bạn
Mang nặng kiếp người - Hội An
Nhà sáng tác - Đổ Thị Hồng Vân
Đêm pháo hoa - Trần Lệ Thường
Cùng một tác giả
Bồ Tát Quá Giang (truyện ngắn)
Quan Âm tóc rối (truyện ngắn)
Cam Lồ sa mạc (truyện ngắn)
Hồng Hạnh (truyện ngắn)
Thần Tài gõ cửa (truyện ngắn)
Thuốc đắng-1 (truyện ngắn)
Thuốc đắng-2 (truyện ngắn)
Tô Canh Bù Ngót-1 (truyện ngắn)
Tô Canh Bù Ngót-2 (truyện ngắn)