Đã có nhiều người viết về Bùi Giáng, tôi chỉ ghi lại vài cảm nhận cuả mình , như là để góp thêm một cách hiểu thơ ông , may ra chia xẻ được chút nỗi niềm cuả ông .
1. Trạng thái “ điên “ cuả Bùi Giáng có ý nghiã gì ?.
Theo thầy Thích Nguyên Tạng ( chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn ) , Bùi Giáng tự ghi tiểu sử cuả mình cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau :
“ 1971 - 75 - 93
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh… “
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 ỏ làng Thanh Châu xã Vĩnh-Trinh huyện Duy Xuyên Quảng-Nam . Tạ thế tại bệnh viện Chợ Rẫy Sai-Gòn, hồi 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998. Ông là cháu ngoại của tổng-đốc Hoàng-Diệu, con của ông Bùi-Thuyên và bà Huỳnh-Thị Kiền làm nghề dậy học ở Đà-Lạt, Sài-Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm hiệp, viết văn, làm thơ…
Theo Võ Đắc Danh , hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3 .
Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...".
Tuy nhiên đọc thơ Bùi Giáng , tôi không thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ cuả ông. Trái lại , ông ý thức rõ trạng thái điên cuả mình , điên là một thái độ sống có ý thức.
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
( Dzách )
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềmÔi người uống rượu còn thêm điên rồ
( Người Điên Uống Rượu )
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ .1996
( Ông Điên )
Anh đã định suốt thiên thu vạn kỷ
Làm thằng điên rồ dại suốt thiên thâu
Nhưng em ạ, dường như anh vô lý
Lúc đoạn trường anh đứt ruột khổ đau
( Quá Khứ Cuả Anh )
Những dòng thơ “ điên “ ở trên như ẩn chưá một điều gì sâu kín lắm trong tâm hồn Bùi Giáng . Ngôn ngữ thơ vưà gói kín vưà gợi ra trạng thái mơ hồ , nưả như đuà , nưả như thật , nưả hồn nhiên , nưả thương đau và cô độc cuả tâm hồn Bùi Giáng . Không có mặt trời mọc , không có trăng bên thềm , chỉ có tuyệt mù sông sâu , biển cạn , bụi hồng và sự hiện hữu người ngợm vô thường trong nỗi đau đứt ruột
2. Thơ Bùi Giáng , thơ tư tưởng
Trong thơ , người đọc khó khám phá ra nỗi đau thực sự cuả Bùi Giáng là gì, nhưng nỗi đau ấy bàng bạc trong hồn thơ ông
Niềm đau đớn xót xa như vĩnh quyết
Niềm điêu linh như vĩnh biệt muôn đời
Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao
( Ngày Nay Ngày mai )
Ăn làm sao? nói làm sao?
Thủy chung muôn một? còn đau đớn nghìn?
( Mười Hai Con Mắt )
Phải chăng đó là nỗi đau cuả những cuộc tình “ rã đôi “ không thành lời . Sự “ chia ngã đường thu “ đã để lại những vết thương tâm không rõ nguồn cơn , nở thành những “ đoá đoá sầu “ để Bùi Giáng tặng cho đời .. Ông có nhắc đến một vài người cụ thể : “Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh ( tức Trí Hải Ni Cô) “ ( tiểu sử tự ghi ) Nhưng những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn vinh như là mẫu thân sinh đẻ ra mình , tuyệt không có chút gì là quan hệ nhục thể cuả tình yêu nam nữ , nhớ mong , hờn ghen , đau khổ, hẹn hò, mộng mơ như trong thơ tình cuả những nhà thơ khác.
Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi
( Theo Áng Mây bay )
Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
( Mai Sau Em về )
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
( Kính Thưa )
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
( Thơ Điên )
Nhân vật Em trong thơ Bùi Giáng thấp thoáng bóng hình một con người cuả thực tại ,
cuả kỷ niệm cuả yêu thương , nhưng cũng là huyễn hoặc “ sương bóng “ tâm tưởng để Bùi Giáng giãi bày
Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên
( Mộng )
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ướt
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe..
( Nhiên Tượng )
Chuyện tình yêu chỉ thoáng qua rất nhẹ vậy “ Niềm đau đớn xót xa như vĩnh quyết “ cuả Bùi Giáng là gì ? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu ý thức về thân phận thiên tài , số kiếp kẻ phong vận bạc mệnh mà Nguyễn Du nói đến trong Độc Tiểu Thanh Ký ? Xưa nay người phong vận phải mang lấy những hận sự , những kỳ oan , như một định mệnh , biết “ hỏi đoạn trường từ đâu “ , dù có hỏi trời cũng không có lời giải đáp ” . Cổ kim hận sự thiên nan vấn / Phong vận kỳ oan ngã tự cư “. Bùi Giáng tự kham lấy những nghiệp chướng ấy chăng , rồi nín thinh như cỏ cây
Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
( Mười Hai Con Mắt )
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
( Chào Nguyên Xuân )
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu …
( Vẫn Là Là )
Thực ra , trong bản chất cuả thân phận làm người , Bùi Giáng đau nỗi đau kiếp nhân sinh , nỗi đau cuả sự thất bại trong nỗ lực vượt qua “ bốn nuí “ ( Chữ cuả Trần Thái Tông ,1218 - 1277 , trong Thiền Tông Chỉ Nam ) , vượt qua sắc không , ngũ uẩn , vô thường . Bùi Giáng không sao đặt được bước chân vào cõi thanh tịnh vô vi (Asamkrita ) . Ông tự dày vò mình trong hình hài “ đười ươi “ , con vật , giống khỉ , ngưả mặt cười vu vơ ( hình ảnh “ điên “ cuả Bùi Giáng )
…Em về giũ áo mù sa
Tiền trình vạn lý anh là đười ươi…
…Em về giũ áo đười ươi
Trút quần phong nhụy cho người phụ nhau.
Đười ươi tại hạ ra đời
Thời gian rạch xé tô bồi cho em.
….Ông già rất mực đười ươi
Già nua lắm lắm còn cười vu vơ.
Nhận ra “ tinh thể đười ươi “ trong thân phận người là một giác ngộ tư tưởng cuả Bùi Giáng .
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Trong Thiền Luận , Daisetz Teitaro Suzuki nhắc đến Thiền Thoại sau : Khi Ngưỡng Sơn ( 804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân thí dụ như vầy: “Như ngôi nhà có sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt khọt”, khỉ đáp lại “khọt khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng. Ngưỡng Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì sao?". Hồng Ân bước xuống một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi khỉ ơi , ta với ngươi cùng đối mặt nhau đây”.
Đoạn thơ trên biểu hiện tâm hồn , tính cách , kiều nói năng rất Thiền cuả Bùi Giáng .
Bùi Giáng nhận ra Phật Tánh trong hình hài đười ươi cuả người , cuả tôi . “ người cũng là tôi , tôi cũng là người , ấy rằng tinh thể đười ươi “ . Vũ trụ , thời gian là nhất thể , tự tại , không sinh diệt : “ một cũng là ba , là hai , là một ; mai , mốt cũng là hôm nay “ . Sự giác ngộ như thế là bước giác ngộ thứ nhất để dẫn đấn đại ngộ . Đây không phải là sự “ xoá nhoà ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung” như nhận xét cuả Nguyễn Hưng Quốc .
Trong đoạn thơ trên , phải chăng Bùi Giáng mượn lời thiền sư Hồng Ân để thể hiện tư tưởng cuả mình ? Rõ ràng tư tưởng thơ Bùi Giáng là tư tưởng Phật Giáo . Đời hư huyễn , như hạt sương , bọt nước , như ánh chớp , như áng mây , vô thường , chiêm bao ( Bùi Giáng có nhiều bài thơ đề tài Chiêm Bao ) .Tự Tánh cuả vạn vật là KHÔNG, sự từ bỏ Ngã , không để vướng mắc vào bất cứ cái gì đạt tới tinh thần “ Ưng vô sở trú “, ( Giới thiệu Kinh Kim Cang – Thích Thái Hoà ). Dường như Bùi Giáng đang phát tâm, an trú tâm và hàng phục tâm, đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập ngã- không
“Anh đã định sẽ cùng em kể lể
Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao
Vườn hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ
Một mùi hương hồng tụ ở nơi nao”
Anh đã định bỏ hoàng hoa say đắm
Bỏ tâm tư về vắng lặng phương trời
Bỏ tất cả tâm tình xưa say đắm
Tới muôn sau tình tuyệt vọng không lời
( Quá Khứ Cuả Anh )
Có lúc Bùi Giáng đã đạt đuợc sự hồn nhiên thanh tịnh (1) , vượt qua sắc không , đạt đến tinh thần cuả Hoa Nghiêm , hoà trong tạo vật . Tôi không thấy hồn thơ Bùi Giáng bị vây khốn như Thanh Tâm Tuyền đã từng viết về ông .
Rong rêu ngày tháng rong chơi
Tìm xuân tinh thể chốn nơi nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như là hài nhi?
( Bé Con Ơi )
…Một hàng cây bóng thần tiên
Dập dìu ở giữa khuôn viên thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy quanh
( Thiên Thanh Là Là )
Xin yêu mãi mãi và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
( Phụng Hiền )
Nâu sồng ăn mặc sớm hôm
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm song the.
( Ăn Mặc Nâu Sồng )
Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật , kể cả sơn hà đại địa , phiến đá, dòng suối trong rừng, một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì ..
Nhưng Bùi Giáng không trở thành Thiền Sư , ông vẫn sống với thân phận đười ươi khỉ đột giưã đời , vẫn tra hỏi tìm kiếm mỏi mòn trong cõi bể dâu , và ngày càng xa hút .. trong cái nhìn cuả con người , cái nhìn đười ươi , nghi hoặc , đo , đếm .
Đười ươi giũ áo tình phong nhã
Khỉ đột trút quần tưởng Việt siêu …
( Chiêm Bao 7 )
Cố gắng trăm năm tìm kiếm mãi
Mỏi mòn nghìn mối thể thân ly …
( Chiêm Bao 3 )
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
( Tặng Mã Giám Sinh )
Ông chỉ đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới đại ngộ cuả Thực tướng vô tướng ; thực tánh vô tánh . Trạng thái “ điên “ cuả Bùi Giáng chính là trạng thái bất lực trước cuộc vượt qua đề “ tái sinh “, mặc dù Bùi Giáng đã nhiều lần nói đến tái sinh.
Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại bông lông
( Quá Khứ Cuả Anh - tại Lê Gia Trang 1991 )
Tỉnh ra nửa sợ nửa mừng
Tận cùng gió núi trăng rừng tái sinh
( Chuyện Chiêm Bao 20)
Tận cùng gió gác trăng lầu
Tái sinh rừng biển buồn rầu trăm năm
( Chiêm Bao 21 )
Chưa giác ngộ , người ta thấy núi là núi sông là sông. Giác ngộ rồi , người ta vẫn thấy núi là núi , sông là sông , nhưng là một tâm hồn tái sinh . Tái sinh trong tâm bình thường không phải tâm sai biệt . Như trở về nhà xưa , hoa xuân như lộng lẫy hơn, dòng nước đầu non như chảy mát rượi hơn, trong vắt hơn , trong mọi vật bình thường là toàn thể vũ trụ , là tự do.
Chính vì không vượt qua được sắc tướng huyễn hoặc hồng trần , Bùi Giáng cứ phiêu du trong cõi đời cô độc mù khơi , hành trình ấy như một bế tắc , lại vưà như một khám phá hiện sinh làm nên thơ Bùi Giáng , những bài thơ ấy chia xẻ được với mọi người nỗi niềm gần xa . Bởi vì nếu Bùi Giáng “ ngộ “ được chân như , có lẽ thơ Bùi Giáng chỉ còn là những bài kệ để thuyết pháp mà thôi .
tôi người thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không
( Mái Hiên )
lạnh lụng dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời
( Mái Hiên )
3. Giá trị thơ Bùi Giáng
Thơ Bùi Giáng tài hoa ở câu chữ , những câu chữ chưá đầy bí mật . Nhiều người đọc thơ Bùi Giáng không hiểu , tấm tắc khen , rằng là tài hoa , rằng là hay … nhưng bất lực , không giải mã được , đành “ tán “ như vầy : “có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi này”.( Phạm Xuân Đài ) . Nguyễn Phú Long trích dẫn thơ trong một bài luận về “Sở Dĩ Nhiên” cho rằng , đọc thơ Bùi Giáng không cần hiểu ý nghiã bài thơ :” Nhưng tại sao lại đặt vấn đề ý nghĩa cho một bài thơ nhỉ ? Bài thơ là bài thơ, những gì ta thấy ta đọc là những gì ta đọc ta thấy vậy thôi. Đừng đi tìm ý nghĩa. Bài thơ như thế đấy, nó không cần có y’ nghĩa.” Nguyễn Hưng Quốc còn đi xa hơn : “ Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều những bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng .Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm… Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Đọc lần thứ ba: chúng ta lại vẫn không hiểu gì cả.”
Ô hay ! Bùi Giáng làm thơ là để mong có người chia xẻ tâm sự điêu linh , vậy mà người đọc lại không hiểu , không cần hiểu , không cần đọc những gì ông gửi gắm qua câu chữ , thử hỏi Bùi Giáng có buồn không ?
Xổ bầu tâm sự điêu linh
Ai người chia xẻ với mình với ta
(Một giờ)
Không phải thơ Bùi Giáng là “ thơ gần với thơ Hậu Hiện Đại, bài thơ là bài thơ , không có ý nghiã nào ẩn sau để chúng ta đào sới “, đấy chỉ là cách nói cuả sự bất lực trước ngôn ngữ tư tưởng cuả thơ Bùi Giáng . Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng , không phải bằng câu chữ ; hơn nưã Bùi Giáng đã dùng một loại ngôn ngữ “ khép kín “ , yêu cầu rất cao đối với người đọc để có thể hiểu thơ ông :
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng dòng
( Bé Con Ơi )
Bùi Giáng bảo rằng phải mở óc trong đầu ra , mở máu trong tim ra , phải có hùng tâm , phải trở về chín phương trời mười phương Phật nước mắt dòng dòng tuôn rơi ( như chín chiều ruột đau ) mới có thể đọc Bùi Giáng , lại phải biết trân trọng nâng niu , dịu dàng như nâng niu hoa lá . Nhất là phải có
“ hùng tâm “ , đừng nghi tâm .Chữ “ hùng tâm “ theo tôi , là chữ Bùi Giáng mượn cái tâm cuả Nguyễn Du : Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên / hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên “ ( Tạp Thi ) . Vời yêu cầu như thế , việc đọc thơ Bùi Giáng thật không dễ dàng .
Thực ra thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng , thể tính cuả nó là tư tưởng , không phải câu chữ , hơn nưã ở nhiều bài thơ , Bùi Giáng đã dùng kiểu diễn đạt “ vô ngôn “ cuả Thiền . Với kiểu ngôn ngữ này , càng bám vào ngôn ngữ , người đọc càng bị mắc bẫy bởi chính tư duy cuả mình . Thí dụ ;
Đệ tử hỏi: - Thế nào là Phật?
Thiền sư Tịnh Không (1091-1170) đáp :
- Nhật nguyệt sáng soi ức triệu cõi
Ai hay mua móc gội non sông!
( Thiền Uyển Tập Anh )
Bùi Giáng cũng trả lời những người hỏi mình :
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
( Bùi Giáng )
Cách trả lời cuả Bùi Giáng trong đoạn thơ trên cũng là cách trả lời cuả thiền sư Tịnh Không . Nếu người đọc chỉ tra hỏi , đo , đếm với cái tâm sai biệt ( Nghi tâm ) , chỉ bám vào câu chữ , thì không thể hiểu ông nói gì . Bởi vì Bùi Giáng tồn tại vô sắc tướng trong đoạn thơ . Người đọc cảm được cái hay cuả đoạn thơ nhưng khó giải thích được được bản chất thẩm mỹ cuả đoạn thơ là gì . Đây chính là đặc điểm ngôn ngữ Thiền. Không hiểu mới là Thiền . Bởi vì Thiền “ ..Bất lập văn tự , trực chỉ nhân tâm “, Thiền loại bỏ tất cả sự nhận thức cuả trí. Khi còn bám vào sắc tướng ( lời ) còn nghi tâm , thì không hiểu được ý ở ngoài lời.
Tất nhiên bằng trực giác , ta vẫn có thể hiểu được lớp nghiã tường minh cuả văn bản , bởi vì trong ta đã có sắn vốn ngôn ngữ để hiểu . Ta hiểu được “ Biển xanh dâu “ vì trong ta đã có câu thơ Kiều “ Trải qua một cuộc bể dâu “ .Trong ta , ai cũng đã từng một lần dệt mộng cho tình đầu cuả mình ,
” mộng ban đầu “, “ mộng dưới hoa “ , “ mộng bình thường “ . Đoạn thơ còn quen thuộc ở cấu trúc giống với đoạn thơ Nguyễn Du giới thiệu Mã Giám Sinh , một nhân vật để lại nhiều ấn tượng cho người đọc Kiều . Sự thú vị càng tăng lên khi người đọc nhận ra phép đối trong câu chữ cuả Bùi Giáng với câu chữ cuả Nguyễn Du : “ Hỏi quê: “ rằng huyện Lâm Thanh cũng gần “ ( truyện Kiều ) , đối với “ Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa “( Bùi Giáng ) . Bùi Giáng đối lập mình với Mã Giám Sinh , từ đó đặt mình trong tương quan với Nguyễn Du. Câu thơ Nguyễn Du là câu thơ tả thực nói cái đời thường , quê quán , tuổi tác , gia cảnh .Câu thơ Bùi Giáng ngược lại, dẫn người đọc vào trường ngôn ngữ nghệ thuật đòi sự cảm nhận lãng mạn. Cái hay cuả đoạn thơ còn ở chỗ Bùi Giáng làm thay đổi đột ngột cách tư duy cuả người đọc. Đang từ kiểu tư duy hình tượng với biển xanh dâu , đột ngột đổi sang kiểu tư duy cụ thể đo đếm, một, hai , ba , rồi tức khắc chuyển sang tư duy triết học với những “ diệu tưởng , nghi tâm “ . Tư duy logic cuả người đọc bị lật nhào , đoạn thơ mở ra chiều tư tưởng , buộc người đọc phải thoát ra khỏi câu chữ để nhìn bằng cái tâm không sai biệt. Tiến trình đọc như vậy tạo ra khoái cảm thẩm mỹ .Người đọc có thể không hiểu câu chữ Bùi Giáng vẫn cảm nhận được cái hay cuả thơ ông là vậy.
Xem tiếp phần 2