Hai sứt trả công cho bài báo tôi viết về công ty mai táng của gã bằng một bữa tiệc ở nhà hàng Thiên Hương nằm ở ngoại ô thành phố. Tôi, gã và hai cô gái xa lạ mũm mĩm chìm đắm trong men bia và những cảm giác hấp dẫn của trần thế. Hai Sứt mặt đỏ gay, giơ bàn tay to bè múc óc khỉ và bảo: “Bọn trí thức của các cậu chỉ là đám khỉ gió. Không hơn gì con khỉ này. Ngoài bộ óc ra còn lại là bỏ đi tất. Vứt sọt rác chó cũng chẳng thèm gặm. Bộ óc này tớ chỉ múc ba muỗng là hết sạch…”. Tôi tái mặt nhưng vẫn nhỏ nhẹ: “Không có bài báo của tớ ca ngợi sự liên doanh giữa nhà xác bệnh viện và công ty mai táng của cậu có lẽ cậu đã sập tiệm lâu rồi. Sao? Cậu đã thấy giá trị của một tí ti chất xám chưa?”. Hai Sứt cười sằng sặc, vết sẹo trên môi gã khẽ giật khiến bộ râu rung lên trông như con đỉa trâu đang quằn quại. Gã bảo: “Dù sao bài báo của cậu cũng đã làm xong sứ mệnh của nó và nó trở thành đồ nghĩa địa rồi. Nhưng nói tới chất xám làm quái gì. Như tớ đây này, tớ chỉ học tới lớp sáu thôi nhưng tớ vẫn điều khiển được bộ não trí thức các cậu…Tất nhiên tớ dùng tiền để mua tri thức….Nhưng xin lỗi….Thời kinh tế hàng hóa mà. Cái gì cũng có giá của nó…”. Tôi giả đò phớt lờ, lơ đãng phả khói thuốc vào gương mặt non tơ của cô gái ngồi bên cạnh. Cô gái đẫy đà ngồi bên Hai Sứt ngúng nguẩy:”Anh Hai ơi ! Nói chuyện gì vui đi. Anh nói chuyện gì đâu trên trời em chẳng hiểu gì ráo trọi. Anh không chịu nói chuyện với em là em đi chỗ khác à…”. Cô gái ngả ngớn choàng tay qua vai gã, cái miệng trông tái lạnh chúm lại áp sát miệng gã như con chim mẹ đang mớm mồi cho con. Dòng nước nhờn nhợt trào ra hai bên mép, chảy dài xuống cái cổ trắng ngần, thon thả…
Tôi biết Hai Sứt đang sục sạo, săn tìm cảm giác nhục dục để lấp đầy sự trống rỗng của tâm hồn, để xua đi nỗi nhục của một gã đàn ông bị vợ bỏ rơi. Hai năm trước đây, Hai Sứt còn trắng tay, gã chỉ là thành viên đội mai táng của phường. Vợ gã vốn thích chưng diện, đua đòi và không chịu nổi cảnh sống nghèo hèn nên đã lẳng lặng cuốn gói bỏ nhà đi, dắt theo đứa con gái năm tuổi. Ngày ấy, tôi vừa tốt nghiệp khoa ngữ văn, thất nghiệp và trong một lần đi lang thang tôi đã gặp và làm quen với Hai Sứt. Tôi đã kết bạn và về chung sống với gã trong căn nhà ổ chuột ẩm thấp và tăm tối. Tôi tập tành viết báo và xin vào làm phóng viên một tờ báo tỉnh lẻ. Vào ngày nọ, Hai Sứt nói với tôi rằng gã sẽ bán nhà lấy tiền góp vốn giúp đội mai táng của phường mua thêm xe tang, lập công ty mai táng. Gã rêu rao rằng sẽ làm việc thiện, công ty mai táng của gã sẽ liên kết với nhà xác ở các bệnh viện trong và ngoài thành phố để tẩm liệm, chôn cất cho người chết, kể cả những cái xác vô chủ. Là một phóng viên mới vào nghề con non nớt nhưng lại thừa hăm hở và xông xáo, tôi đã viết một bài báo ca ngợi công ty mai táng của Hai Sứt. Sau này, khi tôi phát hiện ra những phi vụ làm ăn của Hai Sứt thì đã muộn. Hai Sứt đã mượn danh nghĩa hoạt động của công ty mai táng và đã dùng xe tang để làm điều phi pháp, chở hàng quốc cấm… Nỗi sợ bị mọi người biết được sự vấy bẩn của ngòi bút và nhất là nỗi ám ảnh bị thất nghiệp đã xui khiến tôi sống trong sự im lặng hèn nhát…
Tôi đang chìm đắm trong dòng suy tưởng thì chợt một giọng nói õng ẹo vẳng bên tai: “Anh ba ơi ! Anh nghĩ gì mà ngồi thừ cả người ra như Phật vậy? Cụng với em một cái đi ! Buồn gì mà hiền khô vậy? Không giống nhà hàng xóm bên kia chút nào hết trọi…”. Tôi nâng ly bia cụng với cô gái và nốc cạn. Tôi muốn uống để quên mọi thứ, uống để tê liệt cả tâm trí, để được chìm sâu vào cõi mơ hồ của quên lãng. Đầu óc tôi vẫn tỉnh táo, chỉ có bàn chân trái hơi tê như bị ngàn mũi kim đâm vào da thịt. Bỗng một con chuột cống to đùng chẳng hiểu chui từ đâu ra chạy đâm sầm vào chân tôi và lủi mất ở phía sau nhà. Tôi cảm thấy lợm giọng và nặng trịch phía dưới bụng. Tôi đứng dậy và chậm rãi bước về phía bóng tối ở sau nhà. Trời đã khuya. Gió đêm thổi vào ngực tôi cái lạnh tê buốt. Sao trời dày đặc, hắt những đốm sáng xuống đáy con mương cạnh hiên nhà trông như những đốm lân tinh ma quái đang dật dờ dưới thủy cung…Tôi đã tống khứ được thứ chất lỏng chết tiệt ra khỏi người nên cảm thấy nhẹ nhõm, thư thái. Tôi đang định bước vào nhà thì chợt sững người trước một bàn thờ đóng bằng mảnh ván nhỏ đặt ở bên trái hiên nhà. Nén nhang cháy leo lét hắt vệt sáng lờ mờ xuống mặt đất. Một con chuột cống đang nép cạnh chân bàn thờ, gương những sợi râu như những cần ăng-ten bé xíu để thăm dò thái độ của một lẻ thù xa lạ. Trí não tôi tê dại trong một khoảnh khắc. Cái lạnh chạy dọc sống lưng làm tôi chợt rùng mình. Tôi tự hỏi:” Chẳng lẽ loài chuột đang chạy trốn và ẩn náu trước kẻ thù là tôi hay đang canh giữ chốn linh thiêng là cõi đi về của một linh hồn?”. Tôi chợt hoảng sợ vì đã làm xú uế cõi trú ngụ của một linh hồn. Tôi hấp tấp trở về bàn, vuốt má cô gái và hỏi: “Nhà hàng này sao nhiều chuột qúa vậy em? Ghê qúa ! Lại đặt bàn thờ gần chỗ tiểu tiện nữa. Tội chết à !”. Cô gái cắn hạt dưa lép bép trông như con chuột nhắt đang cắn lúa. Cô gái tỉnh bơ đáp: “Tại có mèo nên có chuột. Em là mèo, anh là chuột. Anh “bo” em đi không mèo ăn thịt chuột à”. Cô gái cười ngặt nghẽo. Tôi hỏi: “Bàn thờ ai vậy?”. Vừa tách hạt dưa cô gái vừa nói: “Con nhỏ con của chị Hà”. Tôi hỏi: “Nó tên gì”. Cô gái nói: “Tên Hương”. Tôi sửng sốt: “ Sao chết vậy?”. Cô gái lạnh lùng đáp: “Mẹ nó lo ôm khách để con nhỏ té mương…Không hiểu do nó mải chơi bị đâm đầu xuống mương hay do nó trông thấy mẹ mình ôm ấp người đàn ông không phải ba nó…”. Tôi tê điếng người, líu cả lưỡi: “Mẹ nó…đâu rồi?”. Cô gái ngậm ngùi: “Chôn nó ở mảnh vườn phía sau…Bỏ đi rồi…”. Hai Sứt chợt thét lên một tiếng như con thú vừa bị thương. Gã xô cô gái mà gã vừa ôm ấp ngã sấp xuống mặt bàn. Gã vùng chạy về phía sau nhà. Tôi lẽo đẽo đi theo sau gã như một con chó xem chủ mình định làm điều gì. Hai Sứt qùi xuống đất trông như một kẻ bị bại liệt đang vái lạy quầng sáng leo lét giữa bóng đêm để cầu xin sự bố thí. Tôi bước lại gần và nâng gã đứng dậy. Hai chiếc bóng ngả nghiêng như hai oan hồn đi vất vưởng trên mặt đất đầy bóng tối…
Ngày hôm sau, Hai Sứt bỏ đi đâu mất biệt. Gã chỉ để lại trên bàn tờ giấy nhàu nát ghi mấy dòng chữ ngắn ngủi: “Tôi đi… Đừng đi tìm vô ích… Hãy tha thứ cho việc làm của tôi…”
Ba tháng sau. Một người bạn cho tôi biết vừa gặp Hai Sứt ở bệnh viện Tâm thần. Tôi vội phóng xe đi tìm gã. Cô bác sĩ trực chỉ cho tôi thấy một nấm mồ nhỏ vừa mới đắp cạnh gốc dừa ở gần cổng và bảo: “Có một anh chàng không biết tên tuổi vừa nhập viện nhưng bỏ trốn rồi. Mấy ngày qua, anh ta cứ tha thẩn, đào bới đất đắp thành nấm mồ. Anh ta xin nhang để đốt nhưng bệnh viện thì làm gì có nhang…. Thế là anh ta bỏ trốn…”.
Tôi nhổ một cọng cỏ may cắm lên nấm mồ. Tôi đứng lặng nhớ lại hình ảnh chiếc bàn thờ bằng ván gỗ đơn sơ của con Hai Sứt. Không hiểu gã có tìm được nấm mồ vô tội của con mình hay không? Trước mắt tôi, nấm mồ nhỏ trông nhạt nhòa, ẩn hiện. Chẳng biết nấm mồ này có phải Hai Sứt đắp hay không? Tôi tự hỏi nếu anh thanh niên tâm thần kia là Hai Sứt thì không hiểu gã đắp mồ cho đứa con thân yêu vô tội hay cho chính mình?