Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.150
123.225.480
 
Vùng gốm Đông Nam Bộ
Nguyễn Thị Hậu

Quá trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ từ thế kỷ XVII cho đến ngày nay cũng là quá trình hình thành một loại gốm mới ở miềm Đông Nam bộ, khác với vùng gốm Bắc bộ (gốm Chu Đậu, Bát Tràng…) và Trung bộ (Gò Sành…). Vùng phân bố của loại gốm này hiện nay  nằm trong địa bàn của Thành phố Hồ Chí Minh và hai tỉnh lân cận là Đồng Nai và  Bình Dương. Căn cứ vào mối liên hệ cội nguồn và quá trình phát triển của gốm ở khu vực miền Đông Nam bộ, một số nhà nghiên cứư gọi chung loại gốm sản xuất ở đây từ đầu thế kỷ XX trở về trước là gốm Sài Gòn, gồm có sản phẩm của “xóm lò gốm Sài Gòn xưa”, gốm Biên Hòa và gốm Lái Thiêu.

 

Xóm lò gốm Sài Gòn xưa. Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi địa danh “Xóm Lò gốm” – một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa. Dựa vào chỉ dẫn trên bản đồ này và từ kết quả khảo sát thực địa, thì những lò gốm bấy giờ gồm các làng Phú Giáo - Gò cây Mai, làng Phú Định – Phú Lâm, làng Hòa Lục sau đó, mà ngày nay thuộc địa phận các quận 11, quận 6, quận 8. Trên địa bàn này còn có kênh – rạch mang tên Lò Gốm và những tên liên quan đến nghề làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất… Tên Lò Gốm này thấy trên sách Gia Định thành thông chí (1820) “Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía Bắc đến Lò Gốm”. Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập trước năm này, có lẽ từ đầu thế kỷ XVIII đã có những lò gốm đầu tiên sản xuất tại vùng Sài Gòn Xưa, nay là khu vực quận 6, 8, 11 (Chợ Lớn). Dấu tích còn lại là khu vực lò gốm Cây Mai và di tích lò gốm cổ Hưng Lợi (phường 16 quận 8).

 

Khu lò Hưng Lợi: Sản xuất từ khoảng giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng. Giai đoạn đầu sản xuất lu chứa nước (nên còn có tên là Lò Lu), loại lớn khoảng 200 lít và loại nhỏ khoảng 120 lít (người dân còn gọi là lu 5 đôi nước và lu 3 đôi nước). Ngoài lu chứa nước, khu lò còn sản xuất loại hũ miệng nhỏ và chậu, vịm, chậu bông có nhiều kích thước. Giai đoạn 2, sản phẩm có in tên lò “Hưng Lợi diêu” gồm các loại đồ “bỏ bạch” (bên ngoài không tráng men) như: nồi có nắp và tay cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước, gốm trắng mỏng, nắp dày. Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống thấm. Các loại đồ gốm có men màu như: hộp có men nâu nhiều kích cỡ, nhiều chậu, hũ men nâu, men vàng. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục giác, lớn nhỏ nhiều kiểu có men nhiều màu, trang trí ô hoa văn “bát tiên” “tùng lộc” “mai điểu”… Giai đoạn 3 sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà, chai, thìa, bình rượu, lư hương, thố có nắp… men trắng vẽ men lam; Có những chữ “Kim ngọc”, “Việt Lợi” trên muỗng, bình trà, ly nhỏ… có thể đó là tên tiệm bán đồ gốm đặt hàng.

 

Các loại lu, hũ, chậu thường nặn bằng tay theo phương pháp dải cuộn tròn kết hợp với bàn dập, không trang trí hoa văn, phủ men nâu hoặc vàng toàn thân. Các loại đồ gốm khác được làm bằng khuôn in và bàn xoay, hoa văn cũng được in từ khuôn và được chạm khắc lại cho sắc sảo, sau đó phủ hoặc tô men nhiều màu, thường là màu xanh đồng hay xanh lam, màu nâu hay đỏ. Loại sản phẩm men trắng vẽ hoa lam hoặc men màu đen (viết chữ trên men). Những sản phẩm này rất phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân Sài Gòn và cư dân Nam Bộ xưa.

 

Dấu tích khu lò gốm Cây Mai nằm ở sau chùa Cây Mai. Ngày xưa từ Gò Cây Mai có con rạch nhỏ, nằm trên đường Nguyễn Thị Nhỏ chảy thông ra đường Lê Quang Sung, đổ ra cầu Cây Gõ và chảy vào rạch Lò Gốm, hiện rạch này đã bị lấp. Đây là đường vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm gốm Cây Mai.

 

Sản phẩm khu lò gốm Cây Mai bao gồm loại đồ gốm thông dụng có kích cỡ lớn, loại sản phẩm có trang trí mỹ thuật, các loại ống dẫn nước và tượng bằng đất nung và đồ sành men màu. Lọai sản phẩm gốm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là gốm men màu. Đây là loại gốm cao cấp có men màu khá phong phú như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng gồm nhiều kiểu loại phục vụ cho sinh hoạt như tô, chén, dĩa, muỗng…Gốm trang trí như đôn, chậu kiểng; gốm thờ phụng tôn giáo như lư hương, bát nhang, bài vị, tượng thờ; gốm trang trí kiến trúc như long (rồng), voi, ngựa và các quần thể tiểu tượng.

 

Hiện nay, sản phẩm gốm Cây Mai còn có một khối lượng lớn quần thể tượng trang trí, tượng thờ, vật thờ bằng đất nung, gốm sành còn lưu giữ ở nhiều cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và các tư gia. Trên đồ gốm Sài Gòn còn ghi những hàng chữ như năm sản xuất và chữ điếm (tiệm), diêu (lò), như : tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11), ở góc dưới bên phải có ghi “Đề ngạn, Nam Hưng Xương, Điếm Tố”, “Canh Thìn Trọng Đông Cát Đán Lập” (1880). Ở miếu Thiên Hậu (Quảng Triệu Hội quán - quận 1) trên quần thể tiếu tượng gốm ở phần sân miếu có những bảng gốm chữ nổi “Lương Mỹ Ngọc Điếm tạo” (tiệm Lương Mỹ Ngọc tạo), “Quang Tự Thập Tam Niên”(1887) và “Thạch Loan Mỹ Ngọc tạo” (lò Mỹ Ngọc ở Thạch Loan tạo), “Quang Tự Đinh Hợi Tuế (1887). Cũng ngay trên quần thể tiếu tượng này còn có những bảng gốm khác ghi “Đề Ngạn Bửu Nguyên Diêu tạo” (lò Bửu Nguyên ở Đề Ngạn làm), “Dân Quốc, Tân Dậu Trùng Kiến” tức trùng tu năm Tân Dậu, Trung Hoa Dân Quốc (1921). Chữ Diêu còn gặp ở một số di tích khác như ở đình Minh Hương Gia Thạnh (Quận 5), trên quần thể tiếu tượng bằng gốm có ghi “Mai Sơn, Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa - Mai Sơn tạo), “Thiên Liên, Tân Sửu Niên Lập” (1901) hoặc ở miếu Thiên Hậu (Tuệ Thành Hội quán - quận 5) trên những quần thể tiếu tượng gốm trang trí trên nóc miếu có ghi “Bửu Nguyên Diêu Tạo”, “Mậu Thân Niên Lập” (1908); “Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa tạo), “Quang Tự Mậu Thân”…

 

Có thể nhận diện gốm cổ Sài Gòn qua loại hình tiếu tượng, tượng tròn, các vật thờ trong các đình miếu, hội quán ở Nam Bộ với các sản phẩm dân dụng như: ơ, siêu, bát, bình, lu, hũ, thống có nắp, khạp có nắp, chậu tròn, chóe có quai, đôn tròn, đôn lục giác, lân, gạch trang trí hình vuông… Có thể nói gốm Sài Gòn đặc biệt phát triển vào nửa sau thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, sản phẩm gốm được sử dụng không những ở Nam Bộ mà còn được ưa chuộng ở khắp mọi miền đất nước.

 

Truyền thống kỹ thuật – nghệ thuật của “Gốm cổ Sài Gòn” mới được khảo cổ học kiểm chứng qua phát hiện tại lò gốm cổ Hưng Lợi và các khu vực làm gốm mà hiện nay chỉ sản xuất loại bếp lò (ông kiềng) ở quận 6. Kỹ thuật làm gốm thể hiện truyền thống sản xuất gốm Trung Hoa. Kỹ thuật này hiện còn được lưu truyền tại các cơ sở lò gốm ở Quận 9 (TPHCM), Lái Thiêu, Thủ Dầu Một (Bình Dương) và Biên Hòa.

 

Gốm Biên Hòa.  Từ cuối thế kỷ XIX, các nghệ nhân gốm Cây Mai, kể cả những chủ lò lần lượt chuyển về vùng Biên Hòa, Lái Thiêu. Một số nghệ nhân lão luyện đã có mặt ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa, thành lập vào năm 1903. Dần dần gốm Biên Hòa trở nên nổi tiếng . Đặc trưng của loại gốm này là kết hợp gốm Trung Quốc, gốm Việt Nam và gốm Limoge của Pháp với sự tham gia của bà Balik cùng một số nghệ nhân từ miền Bắc vào. Gốm Biên Hòa thiên về trang trí hoa văn dày đặc bao quanh sản phẩm bằng phương pháp vẽ nét chìm hoặc lấy nét chìm kết hợp với trổ thủng để tạo hoa văn, sau đó tô men không có sự phân biệt giữa men và màu ve. Sản phẩm gốm Biên Hòa khá đa dạng bao gồm bình, hũ, lọ, chóe, chậu, đôn, đôn voi, đèn lồng, đĩa trang trí, tượng voi, tượng lân, tượng người… Loại chóe men đen hoặc men nâu hoa văn khắc chìm sản xuất ở Biên Hòa còn cung cấp cho các dân tộc Tây Nguyên để đựng rượu cần. Kiểu dáng, quai chóe, màu men và hoa văn hình rồng hình lá đề … thể hiện trên loại chóe Biên Hòa sử dụng ở Tây Nguyên khá gần gủi với loại chóe được sản xuất ở Gò Sành (Bình Định) trước đó.

 

Mội loại sản phẩm gốm Biên Hòa còn được sản xuất nhiều hiện nay là các loại lu, hũ gốm.

Gốm Lái Thiêu ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Gốm sứ Lái Thiêu có các trường phái gốm như  sau: trường phái Quảng Đông sử dụng men nhiều màu chuyên sản xuất các tượng trang trí, các loại chậu, các loại đôn voi; trường phái Triều Châu sử dụng men xanh trắng chuyên sản xuất đồ gốm gia dụng như chén, đĩa, tô và các loại bình; trường phái Phúc Kiến sử dụng men màu đen, men da lươn, chuyên sản xuất chóe, lu, vại, hũ, vịm. Trong đó gốm men nhiều màu Lái Thiêu được sản xuất hàng lọat, hiện nay còn được lưu giữ khá nhiều trong dân gian, trong các Bảo tàng cũng như trong các sưu tập tư nhân. Gốm men nhiều màu Lái Thiêu với nguồn nguyên liệu địa phương kết hợp với kỹ thuật truyền thống của người Hoa và cả người Việt đã tạo nên một dòng gốm men nhiều màu rất bình dị, mang tính dân dã.

Hoa văn trang trí trên gốm Lái Thiêu phong phú, nhiều dạng khác nhau, thường theo xu hướng đồ án hóa, đường nét to, thô nhưng không vì thế mà kém trau chuốt, sinh động. Nội dung tranh vẽ lấy hoa lá làm thể chính, chiếm số lượng nhiều nhất là đồ án hoa mẫu đơn  được bố cục chặt chẽ: Mẫu Đơn với chữ Thọ; Mẫu Đơn Kê (hoa mẫu đơn với gà trống); Mẫu Đơn Điểu (hoa mẫu đơn với chim hút mật). Ngoài ra còn có các đồ án : Qua Quả, Tùng Hạc, Hoa Lan, Hồng Điệp (hoa hồng với bươm bướm), Lý Ngư (cá chép), và vẽ Sơn Thủy phong cảnh hữu tình… Bên cạnh đó, đồ án tranh vẽ cát tường với hình ảnh con Gà trống (Công Kê) đã đưa gốm men nhiều màu Lái Thiêu tiến thêm một bước là ngày càng đi sâu vào tâm thức của người Việt Nam (khoảng những thập niên đầu thế kỷ XX - đến ngày nay).

 

Tài liỆu THAM KHẢO

1) Mr Derbès, 1882. Etude sur les industries de terres cuites en Cochinchine, excursions et reconnaissances, Saigon , p. 383 – 450.

2) Gia ĐInh phong cẢnh vỊnh, 1977. Trương Vĩnh Ký ghi chép, Nguyễn Đình Đầu giới thiệu, nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

3)  Kerry NguyỄn Long, 2002. Gốm Biên Hòa trong dòng giao lưu văn hóa, Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh  con người và văn hóa trên đường phát triển, Nhà xuất bản Trẻ, trang 373 – 378.

 

  

4) Litana – NguyỄn CẨm Thúy chỦ biên, 1999. Bia chữ Hán trong Hội quán người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

5) MỸ ThuẬt Bình Dương xưa và nay, 1998. Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương

6) NguyỄn ThỊ HẬu – ĐẶng Văn ThẮng, 2001. Kỹ thuật sản xuất của lò gốm cổ Hưng Lợi, (quận 8 - Thành phố Hồ Chí Minh), tạp chí Khảo cổ học số 2 – 2001, trang 101-122.

7)TrỊnh Hoài ĐỨC, 1972. Gia Định Thành Thông Chí, dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn.

 

Nguyễn Thị Hậu
Số lần đọc: 6715
Ngày đăng: 06.03.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cổ vật gốm trong Văn hóa Óc Eo - Nguyễn Thị Hậu
Khái quát về các di tính khảo cổ học thuộc giai đoạn “Tiền Óc eo” ở Nam bộ - Nguyễn Thị Hậu
Vài nét về Đồ gốm Việt Nam trên thị trường gốm quốc tế vào thế kỷ 14 đến thế kỷ 17 - Nguyễn Đức Hiệp
Về một loại trang sức cổ độc đáo : khuyên tai hình hai đầu thú. - Nguyễn Thị Hậu
Vài nét về vũ khí cổ Việt Nam - Nguyễn Thị Hậu
Khu di tích GÒ THÁP (Đồng Tháp) trong bối cảnh văn hoá ÓC EO - Nguyễn Thị Hậu
Táng tục mộ chum ở Đông Nam Á. - Nguyễn Thị Hậu
Đồ Gốm cổ tìm thấy ở Sông Đồng Nai - Nguyễn Thị Hậu
Khảo cổ học và môi trường sinh thái. - Nguyễn Thị Hậu
Văn hóa Óc Eo , Một nền Văn hóa cổ ở Nam Bộ - Nguyễn Thị Hậu
Cùng một tác giả
Những mảnh vỡ (26) (truyện ngắn)
Café một mình (tạp văn)
Những mảnh vỡ… (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (2) (truyện ngắn)
Truyện rất ngắn (3) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (4) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (5) (truyện ngắn)
Sông gốm (tạp văn)
Những mảnh vỡ (6) (truyện ngắn)
Happy end (tạp văn)
Những mảnh vỡ (7) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (8) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ 9 (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (10) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (31) (truyện ngắn)
Say bờ (tạp văn)
Những Mảnh Vỡ (11) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (12) (truyện ngắn)
Nhà thờ (tạp văn)
Những mảnh vỡ (13) (truyện ngắn)
Nắng lạnh (tạp văn)
Chùa trong phố (tạp văn)
(tạp văn)
Những mảnh vỡ (14) (truyện ngắn)
Sân bay (tạp văn)
Tháng tư về (tạp văn)
Những mảnh vở (15) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (16) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (17) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (18) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (19) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (21) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (20) (truyện ngắn)
Mùa Thu Berlin (tạp văn)
Cà Phê Mùa Thu (tạp văn)
Mùa Thu Xanh (tạp văn)
Những Mảnh Vỡ (22) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (23) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (24) (truyện ngắn)
Cao Nguyên (tạp văn)
Những mảnh vỡ (25) (truyện ngắn)
Bạn Xa Xứ (tạp văn)
Vùng Biên (tạp văn)
Sơ Tán (tạp văn)
Những mảnh vỡ (27) (truyện ngắn)