Khoảng năm 1986, tôi được mời đi dự trại viết văn dành cho người viết văn trẻ ở Việt Trì một tháng, xong về Hà Nội nằm ở “Chòi ngắm sóng” của Phùng Quán chơi thêm cả tuần nữa.
Những ngày đó ngày nào anh Quán cũng đạp chiếc xe đạp cuốc Liên Xô cao lênh khênh, giải thưởng cuộc thi viết về Lênin, truyện ngắn “Như con cò vàng trang cổ tích”, chở tôi đi ăn các món Hà Nội và thăm các đại gia văn chương như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt…
Một buổi sáng, uống xong tuần trà, anh bảo : “Hôm nay mình sẽ chở Ngô Minh đến thăm một người lạ lùng, người trả giá đắt nhất cho văn chương. Một người mà chỉ một truyện ngắn đã phải đánh đổi cả một đời người, một “nhà thơ chữ quê đặc sắc”- đó là anh Phùng Cung…
Nghe đến tên Phùng Cung tôi đã nhớ ngay đến Con ngựa già Chúa Trịnh, cái truyện ngắn mà ông anh trai mê văn chương của tôi ở cái làng Thượng Luật heo hút góc biển Quảng Bình ấy dấm dúi tha về không biết từ đâu bản chép tay trong cuốn vở học trò cho tôi đọc thời còn học cấp hai trường làng.
Hồi đó tôi không hề biết truyện ấy bị cấm, nên cứ đọc vô tư. Hơn nữa tôi đọc truyện mà chưa hiểu hết ý tứ sâu xa gì, chỉ thương hoài con ngựa Kim Bồng Thiên lý mã khi đã già, vì bao nhiêu năm chỉ lo phục vụ trong phủ Chúa với hai chiếc lá đa che hai bên mắt, không xông pha nơi chiến trận.
Nên khi ra trận sống mái cuối cùng ngựa Kim Bồng “chỉ trong chớp mắt nó tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh. Nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua…”. Tôi giục anh Quán: “Đi ngay đi anh, “Con Ngựa già Chúa Trịnh” phải không ?”…
Anh Quán đạp xe chở tôi từ trường Chu Văn An bên Hồ Tây về đến 135 phố Mai Hắc Đế thì dừng lại. Cửa đóng kín. Anh Quán dựng xe đạp rồi gõ cửa nhẹ.
Một ông già thanh mảnh, lịch lãm mặc quần ngủ màu trắng, đi guốc mộc, đôi mắt thăm thẳm, long lanh hiền dịu, đeo kính lão dày cộp, ra mở cửa. Thấy Phùng Quán, gương mặt ông đang từ ưu tư căng thẳng chuyển sang tươi cười niềm nở.
Anh Quán quay sang tôi chữ nghĩa ý tứ : “Đây là nhà văn Phùng Cung, vừa mới được về với đời từ mấy năm nay”, rồi lại quay sang giới thiệu với Phùng Cung: “Thưa anh, em đưa đứa em làm thơ ở Huế quê em đến thăm anh”.
Ông bắt tay tôi rồi giục: “Vào nhà đi, đứng ngoài này nói chuyện không tiện!”. Ông dẫn chúng tôi lên gác. Tôi quan sát thấy ở ban công nhà có cây cau cảnh đặt cạnh cái vại nước nhỏ, một cảnh thu nhỏ thường ở các làng quê Bắc Bộ.
Tôi đã từng trọ học ở Kim Động, Hưng Yên, thấy nhà nào trong xóm cũng có vại nước đặt ở đưới cây cau cao ở sân dùng để rửa chân mỗi khi đi đâu về. Còn cây cau đến mùa ra hoa thơm lừng, hoa rụng lấm tấm đầy mặt nước, thơm lâng lâng.
Sau này gia đình nhà thơ Phùng Cung đã chuyển về khu vực Bưởi. Một lần tôi cũng theo anh Phùng Quán đến thăm, cũng thấy ở sân ông trồng cây cau, phía dưới có vại nước.
Trước khi nhà thơ mất vài tháng, ông chỉ cây cau và nói với một người bạn tên là Lữ đến thăm nhà: “Anh thấy không, cây cau nhà tôi èo uột, không lớn nổi vì thiếu ánh sáng. Nhưng mỗi lần nhìn nó thì tôi nghĩ đến thân phận…, và tôi càng thấy thương người dân mình hơn. Không giận ai được, chỉ có thương thôi” (Lữ - Cây cau của Phùng Cung).
“Cây cau - vại nước” là một hình ảnh đặc trưng, ám ảnh mà mỗi khi nhắc đến Phùng Cung tôi lại nhớ, lại hình dung ra gương mặt thân thuộc của ông.
Suốt buổi sáng hôm ở phố Mai Hắc Đế ấy, Phùng Cung điềm đạm pha trà, thủng thỉnh làm từng động tác một. Hình như ông vừa pha trà vừa nghĩ tới điều gì đó lung lắm. Tôi thấy ông như một thầy giáo vừa nghiêm trang vừa từ tốn.
Sáng ấy chủ yếu hai người Phùng Cung - Phùng Quán nói chuyện với nhau, còn tôi chỉ ngồi nghe. Tôi biết anh Quán cố tình gợi chuyện để Phùng Cung kể cho tôi nghe cuộc đời ông.
Phùng Cung kể chuyện đám cưới của ông do Phan Khôi làm chủ hôn, mặc dù cơ quan không đồng ý vì gia đình bên vợ thuộc “thành phần giai cấp phong kiến bóc lột”, chuyện bí mật làm thơ trong tù…
Chốc chốc ông quay sang hỏi tôi đôi điều về Cố đô Huế, như thể hiện sự quan tâm đến “khách đường xa”. Tôi thấy thỉnh thoảng Phùng Cung đang câu chuyện sôi nổi lại liếc ra cửa với thái độ rất cảnh giác.
Qua câu chuyện tôi biết Phùng Cung mới 17 tuổi đã làm Chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu, huyện Yên Lạc, Vĩnh Yên khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.
Có lẽ ông là một cán bộ xã thuộc loại trẻ nhất thời ấy. Cái xã là do ông đặt người ta vẫn giữ đến bây giờ. Vì hồi ấy ông là người cách mạng có chữ nhất trong xã. Rồi sau đó, Pháp tái chiếm Vĩnh Yên, ông lên chiến khu Việt Bắc hoạt động văn nghệ. Rồi vào Đảng.
Ông kể ông có hoàn cảnh đau buồn trong Cải cách ruộng đất, bố ông bị quy là địa chủ cường hào, bị bắt và chết trong tù Cò Nỉ, Thái Nguyên. Ông tìm đến nhà tù để thăm bố nhưng rồi phục xuống khóc và thắp nhang lạy bố, vì bố đã thành nấm cỏ trên đồi…
Sau này đọc cuốn Cát bụi chân ai của Tô Hoài (NXB Hội Nhà văn, 1992) tôi mới biết thêm một số nét về cuộc sống của Phùng Cung ở trong tù. Tô Hoài kể rằng, Phùng Cung mới ra tù, đến thăm Tô Hoài “Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà cái bóng của Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chỉ mờ mờ. - Còn sống về được à ? - Cũng không hiểu tại sao anh ạ”…
Tô Hoài kể, tan lớp kiểm điểm văn nghệ sĩ ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt tù 12 năm không có án, trong đó biệt giam 11 năm. Đã tù biệt giam, lại bị bệnh lao, thế mà không chết, mới lạ.
Có lẽ nỗi đau đó đã lặn vào hồn, vào tim, đã rèn nên tính suy tư thế sự cuộc đời vô cùng sâu sắc trong văn chương Phùng Cung chăng?
Tôi rụt rè hỏi ông: “Em đọc Con ngựa già Chúa Trịnh thấy truyện hay thế, nhân văn thế sao lại sự tình khốn khổ thế hở anh?”. Ông chớp chớp mắt, thở dài: “Chuyện dài lắm. Nhưng thôi đừng nói chuyện này nữa, Quán nhỉ…”.
Nói rồi ông đứng lên mở ngắn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm”.
Phùng Cung trầm ngâm : “Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà.
Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng cười hỏi: “Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ à ?”. Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá.
Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có “chuyện gì” trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc".
Anh Quán nhận tập vở thơ rồi nói vui: “Anh suốt ngày xoay trần làm nghề đập đinh, rồi rán bánh giúp chị Thoa để bán kiếm tiền nuôi ba con nhỏ đi học, tưởng anh đã quên mùi bút mực rồi, hóa ra vẫn còn vương vấn”.
Phùng Quán đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haicu của Nhật Bản, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài thơ hai câu đầu tiên tựa đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh
(Sau này in trong tập thơ Xem đêm, câu thứ hai được ngắt ra thành hai câu: Dạt vào ao cạn / Vẫn còn lênh đênh).
Chỉ một cánh bèo quê đơn sơ thôi mà khái quát được cả một phận người! Loại thơ kiệm chữ mà đầy ngẫm nghĩ này hiếm lắm, quý lắm. Tập thơ nhỏ hút hồn tôi.
Thế là tôi vừa tò mò lắng nghe hai ông anh nói chuyện với nhau, lại đọc ngấu nghiến hết cả tập thơ. Có thể nói lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với một loại “thơ quê” ấn tượng như thế. Nó vừa dân gian vừa bác học, vừa tâm can vừa chữ nghĩa.
Áo cũ gối đầu / Đêm tỉnh giấc / Sao khuya dạt chân rêu / Lạnh biếc / Bầu buông chày ngọc/ Cõi Lam Kiều / Về bên góc sân con (Góc sân con); Đêm về khuya/ Trăng ngả màu hoa lý / Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông (Đò khuya); Quất mãi nước sôi / Trà đau nát bã / Không đổi giọng Tân Cương (Trà)…
Chao ôi là chữ! Rất nhiều, rất nhiều, toàn chữ quen mà quá lạ. Người ta nói mồ hôi da chứ ai nói mồ hôi xương? Vậy mồ hôi xương là mồ hôi gì? Có lẽ đó là những giọt mồ hôi cuối cùng của con người lao lực, bị vùi dưới đáy xã hội chẳng ai quan tâm.
Rót nước vào ấm trà là “quất nước sôi”, “quất” chứ không phải “rót”. “Quất” là “đánh”. Đánh đến mức trà mới “đau nát bã”. Nhưng kỳ diệu là “không đổi giọng Tân Cương”. Phải chăng ông đang nói về đời mình!
Lao động thơ ghê gớm lắm mới chiết ra được những chữ quê hút hồn người như thế. Có lẽ ông đã nghĩ đến những con chữ ấy bao nhiêu lần trong những năm tháng ngồi một mình nơi biệt giam. Nó giống như gỗ lũa.
Vâng, đời chữ là đời người. Chữ của Phùng Cung là chữ đẻ ra, luyện nên từ cánh đồng, bờ tre, mái rạ, hương lúa, hương cau, ánh sáng đom đóm, từ đớn đau, chiêm nghiệm một đời người trầm luân khổ ải.
Tôi cứ nghĩ, chữ ấy mới là chữ của hồn thơ Việt. Thơ là để cho người đọc xúc động, chia sẻ, thơ phải làm cho người đọc nổi da gà, ứa nước mắt, mới là thơ thật.
Thơ Phùng Cung “ý tại ngôn ngoại”, là loại thơ làm người đọc nổi da gà! Phùng Cung gọi mùa nước lụt là mùa nước mắt là rất thật đối với người nông dân đồng bằng sông Hồng, cũng như chính đời ông: Đê tiền triều gãy khúc / Đồng ngập trắng / Con lềnh đềnh cõng - vắng - bơi - suông / Thương em đứng giữa mùa nước mắt. Không phải đó là sự quan sát, ghi nhận, mà đó là tâm cảm, là chiêm nghiệm, chiêm cảm.
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế.
Năm 1988, nhờ không khí đổi mới, tạp chí Sông Hương do nhà văn Tô Nhuận Vỹ làm Tổng biên tập đã đăng rất nhiều thơ, truyện ngắn, bài viết về “đổi mới văn chương”.
Tôi đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập.
Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như Nghiêng lụy, Bèo, Người làng, Chiếc lá rụng, Cô lái đò, rút trong tập thơ chép tay ấy.
Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau 32 năm kể từ Con ngựa già Chúa Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với độc giả Sông Hương. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui lắm.
Gần đây tôi mới biết, khi nhà thơ Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi.
Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì. Có lẽ để nhờ chị giữ hộ chứ không phải tặng, vì không thấy đề tặng.
Khát vọng
Ai giùm tôi thủ tục làm
vô tận
Thỏa thích trải trời xanh
cõi không cùng
Tôi khát khao huy động
Những chùm sao đẹp
Đêm về lung linh trên xóm nghèo sao
Ăn năn
Vạn thuở hồn cỏ xanh
Mặt đất thơ gắn bó
Bất hạnh nào hơn
Già rụi quê người
*
Lúc ra đi
Đãy quê thao thức gối đầu
Trót - dông dài - trăng nước
Mặt - va giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc
Men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo
cuối thôn !
(Rút từ tập Xem đêm - Phùng Cung)
Tập thơ gồm 106 bài chép trên giấy in rô-nê-ô màu vàng rơm, bìa tập vở học trò bọc giấy can bản vẽ cũ.
Ở trang đầu cuốn vở đề tên là Phó Châu. Có lẽ thơ ghi trong hai cuốn vở mà tôi đã đưa cho tạp chí Sông Hương và chị Hà Khánh Linh đang giữ đã được chọn vào tập Xem đêm (200 bài, NXB Văn hoá thông tin 1995).
Nhưng kẹp trong tập thơ chép tay chị Linh đang giữ còn có bài thơ mới làm ghi trên hai mặt một tờ giấy cũ là bài Chiều cun cút, nhưng không thấy trong tập “Xem đêm”: Áo song chàng / Nón lá / Phới về quê / Dệt dạt tối ngày khoai dáy / Lúc thảnh thơi / Quần vận khấu bò / Rong ruổi chốn rau dưa / Tôi gõ rỗ/ Khe khẽ ê a / Chiều cun cút / Một mình / Không lửa không đèn / Nhòm nhõm thâu đêm / Chết thèm cái bóng / Xa là trời sao / Gần là đom đóm. Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ là cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất…
Tôi rất vinh hạnh được gặp Phùng Cung một số lần nữa ở nhà Phùng Quán. Ông vẫn từ tốn, đĩnh đạc, như cuộc đời chưa từng bị phong ba bão táp gì. Bao giờ cũng cười tủm tỉm với ánh mắt chứa chan đồng cảm.
Ông cùng mang họ Phùng, nhưng không có huyết thống với Phùng Quán. Phùng Cung quê ở Sơn Tây còn Phùng Quán quê ở Huế.
Trong “đám” tài tử thời ấy, cho đến khi “nằm dài dưới đáy huyệt”, hai người Phùng Cung - Phùng Quán luôn thủy chung son sắt.
Phùng Quán ngưỡng mộ Phùng Cung vì đó là một người luôn sống và viết thực lòng mình, đó là một người anh cả về tuổi tác cũng như tài năng văn chương chữ nghĩa.
Phùng Quán đã làm hết sức mình để tập thơ Xem đêm của Phùng Cung ra mắt độc giả. Còn Phùng Cung thì luôn yêu thương, tin cậy đối với Phùng Quán, coi Phùng Quán như một người em chí cốt.
Nên khi Phùng Quán mất, Phùng Cung là người được bạn bè và gia đình Phùng Quán chọn mời làm trưởng ban tang lễ. Ông đã đọc bài điếu văn “Sống là thể phách, còn là tinh anh” cực kỳ cảm động và súc tích. Bài điếu văn ấy cũng là một áng văn chương tình nghĩa và đẹp thâm hậu mà tôi đã đưa lên trang đầu trong tập sách “Nhớ Phùng Quán” (NXB Trẻ 2002).
Trong tôi, Phùng Cung luôn là một nhà thơ tầm cỡ, một nhà văn có bản lĩnh sáng tạo và nhân văn đặc sắc. Tiếc là văn chương của ông đã không được đến nhiều với độc giả.
Tôi cứ mong ước lúc nào đó xuất bản một tuyển tập văn thơ Phùng Cung chắc thú vị lắm... Nhưng đến bao giờ? Trong tập thơ Xem đêm có một bài thơ nhà thơ nhắn gửi với những người làm thơ hôm nay, đó là bài Tội nghiệp.
Để kết thúc bài viết, mời bạn đọc cùng tôi đọc lại bài thơ đó: Tội nghiệp nhà thơ / Hợm mình / Lầm lạc / Biết không biết sống / Nên không biết chết / Nửa thế kỷ / Bị lưu đày / Trong cõi tung hô… Tôi biết ông đang nói điều gì!
Huế, 3/2008
Nhà thơ Phùng Cung - Ảnh: N.Đ.Toán
Theo TPO