Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.138
123.227.611
 
Tôi chỉ viết để trả nợ
Lý Đợi

Vài cảm nghĩ thoáng qua với Tạ ơn người (Hội VHNT Quảng Ngãi, 5. 2008) của H. Man.

 

Tôi gặp anh H. Man lần đầu tiên, sau dịp tết Mậu Tý [2008], tại nhà một người bạn thơ cùng xã, với vài anh chị văn nghệ khác. Đó là một tiệc rượu ấm cúng, thân thiện, và như thói quen thường tình, có đọc thơ, tôi thì ngồi nghe. Hôm ấy, H. Man đọc cho mọi người nghe 4-5 năm bài, trong men rượu, anh uống ít nhưng rất say, tôi nhớ 3 bài này, nay chép ra đây.

 

             Tắmmẹ, http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=7959&LOAIID=1&LOAIREF=1&TGID=1590

 

 

Góc khuất

 

Có cánh hoa nào mới nở

Chợt trong góc khuất khu vườn

Trong lao xao lời của gió

Ngập ngừng, lặng lẽ đưa hương…

Có nỗi vui nào sót lại

Từ trong góc khuất tâm hồn

Em gởi về theo nỗi nhớ

Để chiều tím cả hoàng hôn.

Bài thơ tình yêu thứ nhất

Rêu xanh phong kín ngăn lòng

Đến mùa em bay đổi xứ

Cũng đành – khuất núi, mù sông…

Bạn bè vẫn ngồi đâu đó

Lẫn trong góc khuất cuộc đời

Chia cùng dăm ly rượu nhạt

Nỗi niềm nhân thế đầy, vơi

Cùng chung một mùa vàng lá

Cùng thèm những cuộc rong chơi

Đói, no cuối ngày dâu bể

Lại thêm những nỗi đau đời…

Em – chắc gì em biết được

Dài trong góc khuất thời gian

Có một thằng tôi bụi bặm

Lăn theo gió lũ, mưa ngàn…

 

 

Chiếc cơi trầu của Mẹ

 

Làng xác xơ khi bão lũ đi qua

Trơ mặt đường quê vết thương lở loét

Những vết thương từ thiên tai...

 

Mẹ dấu vết thương lòng từ mái tranh liêu xiêu

Khi nhặt nhạnh đồ dùng còn sót lại

Những thứ đã trôi đi là của trời đất

Chỉ tiếc chiếc cơi tre

Ngày còn sống

cha đan

cho mẹ đựng trầu

Cuồn cuộn dòng sâu

Vật kỷ niệm trôi bập bềnh mặt nước

Chỉ cách một tầm tay mà không sao với đựơc

Huống chi tình người đã dạt phương nao

Ba đứa con

ở góc phố, lầu cao

Ngày gió lũ mưa cuồng

không kịp về cứu hộ

Chỉ có những người láng giềng nghèo khổ

Chia cùng đôi bữa hẩm hiu

 

Nhà lá đơn sơ thông thống gió chiều

Rét buông buốt như lòng chưa đủ ấm

Chiếc cơi tre

trôi giữa vực hồn thăm thẳm

Mẹ nhớ thương chồng

khe khẽ gọi tên con.

                                                1. 2008

 

Bẵng đi vài tháng, nay cầm tập thơ Tạ ơn người (Hội VHNT Quảng Ngãi, 5. 2008), tôi bắt gặp những dòng này ở tiểu mục “Thay lời tựa” (tr.9): “… Có một người nói với tôi: ‘Nhà thơ là phải Hôn phối với Vũ trụ. Và Quê hương nhà thơ là nơi chốn Con người trần thế, chứ không thể là một xóm làng nào đó.’

 

Tôi nghe thì biết vậy…!

 

Nhưng tôi vẫn chỉ là con của Mẹ Cha, của xóm làng, của quê hương, của những hình ảnh quen thuộc… Nơi ấy tôi sinh ra, lớn lên, yêu thương, và rồi sẽ chết đi. Tôi mắc nợ tất cả những điều ấy, và tôi chỉ viết để ‘trả nợ’, trả hoài cũng không xong.

 

Thơ tôi, vì thế, chỉ là những tình cảm khá riêng tư, và rất bình dị.

 

Khi cầm trên tay tập thơ này là bạn đã chia cùng những nỗi niềm, những ẩn ức về một điều gì chưa toàn vẹn…”

 

Đọc xong những dòng tâm sự này, rồi đọc qua tập thơ một vài lượt, và tôi tin H. Man nói thật.

 

Trong bộ tam: Danh – Lợi – Tình, chữ Tình hiện rõ nhất, và gần như chi phối toàn bộ cảm xúc, những chọn lựa, cũng như cách đặt vấn đề của tập thơ.

 

Danh – Lợi – Tình vừa là ước mơ, là lẽ sống của đời người; nhưng cũng vừa là những trì níu, “bó chân” con người ở lại với tham sân si thường tục.

 

Danh – Lợi – Tình, vì thế, cũng là một “cảnh giới” khó vượt qua, nhưng nhiều người [nhất là trong giới tu hành, giới văn nghệ] muốn vượt qua.

 

Danh – Lợi – Tình, nhiều khi, cũng là cái “thế giới” mà những người làm văn nghệ muốn vẽ lên tên tuổi mình.

 

Chữ Tình ấy là linh hồn, là cảm quan của Tạ ơn người.

 

Dường như H. Man không làm thơ, và không thể làm thơ vì Danh, vì Lợi. Trong bối cảnh văn học và xã hội khá xô bồ, nhộn nhịp như ngày nay, tìm cái danh, tìm cái lợi – có lẽ, người ta không đi lối này.

 

Cái Lợi của thơ là gì? Tôi chưa bao giờ biết. Hay chính là: cái bất lợi!?

 

Còn cái Danh? Nhiều khi là một vị thế nào đó về quyền lực văn nghệ. Một phong cách vượt trội nào đó trong văn chương. Một mật độ xuất hiện dày đặc trong các câu chuyện thường ngày của người đọc. Một chỗ nào đó trong nghĩa địa của lịch sử văn học… H. Man có làm được những điều này không? Tôi e là không.

 

Thơ anh là một “cõi quê”, chất này những hình ảnh hoặc thơ mộng, hoặc thân thương, hoặc đằm thắm, hoặc lạc thời…

 

Qua thơ, H. Man chọn cách ở lại với chữ tình. Dường như ai đọc tập thơ cũng thấy vậy. Và chính cách đặt vấn như thế, Tạ ơn người tự nhiên xa lạ với “khí quyển” của thơ bây giờ.

 

Và vì cái xa lạ ấy, nên có lúc lại gợi tưởng trong tâm hồn xa quê và chật chội của dân thị thành một phong cảnh hiền hoà nào đó.

 

Và cũng vì sự xa lạ, nên có khi lại là một gợi ý với những tâm hồn gắn chặt với cảnh nhà, với xứ cũ… những “sực tỉnh” về nơi mình đang sống.

 

Cái quê hương thuần khiết, cái cố quận nhi nhiên, rõ ràng, đã không còn. H. Man cũng gián tiếp khơi gợi về điều ấy, trong anh có một cuộc đi tìm. Và so sánh.

 

Phố cũ

 

Cũng trăng ngàn muối sương khuya

Cũng câu thơ nối lời chia biệt người

Đã nhàu nhạt tuổi bốn mươi

Còn vang vọng mãi tiếng cười xa xăm

Phố xưa đổ giọt bóng thầm

Đã xa

dù cách nửa tầm tay xa

Vô tình

vạt nắng đi qua

Mà đau buốt mãi với tà huy sao?

Còn tôi với nghiệt oan nào

Giữa mang mang nhớ

Buồn

xao xác về...

 

Một phố cũ cũng không như ý anh? Một quê cũ, cũng thế. Vậy mà, nay anh lại sống ở “quê” mới, đi trên các đường phố mới. Trong lòng anh, chắc chi yên?

 

Cuộc sống và quê nhà ngày một thay đổi, nhưng lòng anh, có chút gì đó như luyến tiếc, níu giữ “chuyện ngày xưa” và gần như, chẳng cam lòng.

 

Đôi bài, anh lại như một người ghi chép, cố gắng níu giữ và mô tả lại những điều mình còn thấy trong tâm tưởng.

 

Quê nhà

 

Nơi ấy

chứa sắc trời cuối đông

Giọt nắng vàng gieo liếp cửa

Đã xa bao lần lệ ứa

Mẹ già

tóc lệch chiều hanh

Nơi ấy

            có con trai tôi ngồi bưng mặt khóc

Bơ vơ

chiều quanh hiên nhà

Nơi ấy

một lần thôi

Khép cửa

Lối về đã khuất mù xa

Nơi ấy có bao điều chưa nói

Dường như là tình yêu

Dường như có điều chi rất lạ

Hoang mang rời rụng trong chiều

Nơi ấy

Có nắng vàng cây xanh

hoa xoan trắng tóc

Có con chim gọi đàn giữa chiều xa xứ

Có nỗi buồn

lén lén qua tim....

 

 

Về bên sông làng cũ

 

Tôi về

ngồi lại bên sông cũ

Đưa tay mà vớt bóng thuyền hoa

Em bỏ bến thuở tình tôi xanh dại

Gió thay mùa

lòng cũng khơi xa

Giọt nước mắt đã hoen mùi rêu mốc

Khoảng tường câm

từng sợi nắng đi qua

Chút trăng cũ cũng đôi lần nguyệt thực

Màu sơ nguyên mây lớp lớp nhạt nhoà

Còn với mất giữa hai bờ mây nước

Một dòng trôi hiu hắt một lòng quê

Dù ngựa chứng cũng cùn chân, mỏi vó

Huống chi tôi không có bận quay về?

Về ngồi lại bên sông làng cũ

Khóc thầm theo câu hát “ Cố nhân hề...”

 

H. Man bộc bạch: “Tôi viết để trả nợ” – ai mà không viết để trả nợ.

 

Nhưng dường như, H. Man nhìn thấy trong hành trình cuộc đời của mình, là một cuộc đi buôn, “không có vốn ở khởi thuỷ, và không có lãi ở chung cuộc” (ý của Inrasara). Anh là một người “nợ nần”, có thể theo nghĩa thường tục, và cũng có thể theo nghĩa rộng rãi nhất của từ này.

 

Qua Tạ ơn người, tôi nhìn thấy H. Man không chỉ nợ quê hương xứ sở, nợ ơn nghĩa sinh thành, nợ chính mình…; mà anh còn nợ cả những điều không mắc nợ. Cái nợ ấy dai dẳng, đến trước, và đi sau.

 

Tự nhiên, nghĩ đến đây, tôi lại nhớ về bài “Trừ châu tây giản” [(Dòng suối phía tây Trừ châu), nay thuộc huyện Trừ, tỉnh An Huy] của Vi Ứng Vật (736-830?), đời Đường, thuộc phái “điền viên”.

 

Độc lân u thảo giản biên sinh

Thượng hữu hoàng ly thâm thụ minh

Xuân triều đới vũ vãn lai cấp

Dã độ vô nhân chu tự hoành.

 

Tạm dịch nghĩa: Thích riêng cái cảnh cỏ mịn bên bờ suối. Nghe chim oanh vàng hót trong lùm cây cao và rậm. Thấy thuỷ triều mùa xuân mang mưa đến, rồi tuôn chảy mạnh hơn vào xế chiều. Nhìn bến đò không người, bên cánh đồng, biết chiếc ghe vẫn nằm ngang. 

 

Nhà thơ đã mất bao lâu để “thích, nghe, nhìn, biết…” những điều này. Phải chăng chỉ là trong một hoàng hôn, bên sông vắng, và mưa xuân. Tôi e không phải vậy!

 

“Dã độ vô nhân chu tự hoành” - ấy là một cái thú của cô quạnh, của điền viên. Và ấy cũng là một cái nợ trần thế phải trả. Một cái duyên phải gặp, một tĩnh tại thường nhật của “chu tự hoành” (chuyến đò ngang).

 

H. Man cũng là một chuyến đò ngang, bắt giữa quê và phố, giữa lòng mình và chuyện nhân tình, giữa bên trong quặn chảy và bên ngoài u buồn, tình-lặng.

 

H. Man có lúc đã tình tạo ra được một xứ mộng, một cỡi hư hao cho riêng mình – và để thở, và để yêu… dễ dàng hơn.

 

… Giữa lòng trăng khuya, sớm tội tình chưa?

Cố níu giữ một cái gì lỡ mất

Cũng như cuội chọn lấy điều không thật

Anh vẽ lên trời

một mảnh trăng riêng.

                                                (Trích trong bài “Cuội”)

 

Nhiều khi đó là một tàu lá chuối non nằm phơi trước gió mưa, bão táp, khô hạn…

 

Nhiều khi đó chỉ là một điều gì nhỏ nhoi không nói lên được…

 

Tạ ơn người theo tôi là một tàu lá chuối non, nhưng mở phơi, chứ không phải “phong còn kín” (của Nguyễn Trãi); và rất mỏng manh.

 

Tôi rón rén, tôi e dè khi lần dở, và tôi sợ phải lung lay quá nhiều, kẻo rách mất.

 

Tôi đi thoáng qua, đi thoáng qua với cái tình bề mặt của con chữ, sợ phải soi mói nhiều vào bên trong, với những vỉa tầng của chữ, với những thách thức của thay đổi về hình thức, và những điểm lạ biệt về nội dung. Tôi sợ phải làm thế với Tạ ơn người.

 

Trong tâm cảnh tạm thời của đời sống thị dân, tôi tìm thấy ở đó một lối đi nhỏ, quen quen của quê cha đất mẹ. Và đôi khi, là một sự mơ tưởng trở về.

 

La Hán Phòng, 3-5-2008

 

Lý Đợi
Số lần đọc: 3119
Ngày đăng: 07.05.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc Trần Dần qua thơ* - Đặng Huy Giang
Yếu tố bi kịch trong tiểu thuyết Đất lửa của Nguyễn Quang Sáng - Phạm Ngọc Hiền
Đôi điều về “ĐÔI ĐIỀU CẦN NÓI VỀ…” của Mang Viên Long. - Inrasara
Đôi điều cần nói về : Không có cuộc Cách mạng Thơ trong tương lai gần của Inrasara - Mang Viên Long
Đọc MÙA HOÀNG HOA của MAI TRÂM : Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn(1) - Lê Vũ
Lục bát Trần Vạn Giã :Thả thơ theo ngọn gió bay - Võ Quê
Chiêu tuyết cho nàng Hoạn Thư - Hà văn Thùy
Ngô Liêm Khoan sớm thoát “máng xối”… - Phan Hoàng
Từ Cửa mở đến Cửa đã mở * - Đặng Huy Giang
Trần Đại Nhật là người làm thơ mang hai dòng máu Hàn-Việt. - Hồ Ngạc Ngữ
Cùng một tác giả
Trợ giúp ! (văn hóa)
Tin buồn (văn hóa)