Lời mở:
Kinh Thánh: “Quả thật ta nói cùng các ngươi: Một con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu vào Nước thiên đàng”. Và… (Xem thêm Lời kết ở dưới).
1.
ĐỨA CON CỦA ĐẤT
Tôi,
đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp
đứa con của nắng lửa bốn mùa cát trắng hanh hao
đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét
và của đôi mắt tháp Chàm mất ngủ xanh xao.
Mẹ nuôi tôi bằng bầu sữa ca dao buồn
cha nuôi tôi bằng cánh tay săn Glơng Anak*
ông nuôi tôi bằng vầng trăng sương mù truyền thuyết
plây nuôi tôi bằng bóng diều, hồn dế, tiếng mõ trâu.*
Lớn lên,
tôi đụng đầu với chiến tranh
tôi cụng đầu với cơm áo, hiện sinh, hiện tượng
tôi chới với giữa dòng ngữ ngôn hoang đãng
rồi cuộn chìm trong thung lũng tình yêu em.
Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi
tôi lạc mất điệu đua buk, câu ariya, bụi ớt*
trái tim đui
tôi như người bị vứt
rớt giữa cánh rừng hoang trụi lá mùa xanh.
Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên
rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá khứ
như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống tan hoang thành phố
tôi tìm lại tôi
tìm thấy nắng quê hương!
Lại xanh trong tôi – dù rừng đã cháy
lại chảy trong tôi – dù sông đã chết
chợt hanh lại cát – chợt buồn lại ru
chợt duyên lại em – chợt hoang lại tháp
Giọng mẹ xa vời dỗ giấc thiên thu.
_________________
* Glơng Anak: tên một thi phẩm cổ Chăm; Plây: buôn, làng; Đua buk: một điệu múa; Ariya: thơ, trường ca.
(trong Tháp nắng, NXB Thanh niên, 1996)
2.
TRONG KHOẢNG TỐI CỦA GIÓ MÙA
tặng Trà Vigia
Da và xương
Mắt buồn và khói thuốc
Tờ giấy trắng và đêm trắng
Bơi ngang dòng nước tối ẩn hình.
Anh
Đến và đi
Chiếc ghế trống bỏ lại.
Không cả ngoảnh lại
Những âm tiết đen mang khuôn mặt loài cú biển
Đóng cửa một bắt tay.
Bên cạnh và xung quanh
Ném sang cái nhìn chật chội
Toan đám thiêu linh hồn chúng ta
Cả ở thì quá khứ.
Gió mùa làm thịnh nộ
Thổi rạp đám cỏ non nóng vội ngóc đầu.
Trước nhay nháy nhúm sáng dối lừa
Chúng ta chống đối / hùa theo / đồng lõa
Chúng ta phạm nhân / quan tòa
Chúng ta bên lề
Ai hiểu được?!
Trong đối thoại bị chối từ
Một ban mai mắc kẹt
Trước bàn tiệc ngút trời
Chúng ta vỏ chai không vứt xó
Trong loạn nhịp vũ khúc cổ
Không ai còn níu được sợi tóc định mệnh mình.
Anh
Vịn vào lặng câm
Đứng.
Đã lở và đang vá lại
Đã tàn rữa và đang được vun quén
Đã đào bới và đang nhào nặn
Đang giấc mơ nhỏ giọt.
Tiếng nói bị rách nơi đáy họng
Cả ở bề chéo tâm thức
Chúng ta bất lực và
Chúng ta không biết đường để khóc
Ngôi nhà cuối cùng đổ rụm sau lưng.
Đi
Không ai có thể vỗ về khoảng trống.
Chỉ còn chối từ nâng đỡ hi vọng anh.
Mẹ quên nước mắt
Vợ quên than
Con quên khóc
Bằng hữu quên ly rượu cuối cùng.
Trong tiếng nổ lách tách của loài lửa đốt rạ
Choáng giữa vinh quang mù
Chúng ta
Gió tắt vào lồng ngực.
Đêm tối gồng hai cánh tay
Ngự trị.
Anh
Mang theo hơi thở gió mùa
Đi mất.
Cả nỗi chán cũng không buồn đậu lại.
Lên đường
Một hành khúc đen hơn kinh cầu đen
Vừa trỗi
Ban mai không bao giờ mọc trên bàn chân
Cứu vãn hi vọng anh chỉ còn tuyệt vọng thẳm sâu hơn nữa.
Trước lũ mây hãnh tiến đáng thương
Trước nhúm nắng nhỏ con vừa than vãn vừa ưỡn ngực
Về phía dòng nước xanh bợt.
Anh
Hai tay bụm mầm nắng
Chờ đợi.
Bác nông dân
Chậm rãi vạch từng đường cày
Nhìn phơi mở bóng đêm.
Không ở đâu và không bao giờ được hiểu
Cô đơn như hố thẳm cô đơn
Anh vỗ cánh
Về phía gió mùa.
Bên kia cõi lặng.
Tiếng lướt đi của bàn chân
Hắt hơi của loài côn trùng tiền sử
Nín thở của nhà sư ẩn tu
Cánh tay vãi gieo vào vô hình
Xào xạc của gạch nung triều đại cũ
Bốc mùi của đất mục
Cạ lên trang giấy của câu thơ chưa viết
Gầm của biển chết
Lửa vỡ vào thành đêm
Vạc 300 tuổi thọ thình lình kêu xé không gian
Khóc vừa hạ sinh một giọng nói.
Niềm vui bất ngờ vang lên trong lễ hội
Cái cuối cùng có thể cứu vớt chúng ta:
TIẾNG HÁT.
_____________
(trong Lễ tẩy trần tháng Tư, NXB Hội Nhà văn, 1996)
3.
ĂN CHỮ
Tôi có thằng bạn mắc bệnh ăn
chữ. Không thứ gì khác hắn ăn
sáng trưa chiều hắn nhai ngấu nghiến
Vợ hắn khóc hai năm nay thôi
Hắn ăn đủ các thứ nặng nhẹ
Nietzsche Khổng đến Sagan tất
tần tật hắn ăn từ tốn chậm
rãi những con chữ. Thuở xà lỏn
ên mắt tôi thấy lão Klum mõ
làng ăn trăng với nước lã trừ
bữa. Trước nữa, cha kể ông cố
ngoại tôi chạy càn Minh Mệnh đọc
kinh lễ đốt tập thơ Glang Anak
pha nước đái trẻ uống thay vì
ăn chữ. Ông sống trên trăm tuổi
cha nói giòng ăn lạ chỉ sinh
một ở thế hệ nào đó bất
kì đâu Cham không bao giờ tiệt
nòi ăn chữ. Vợ hắn khóc sao
trúng ngay chồng em.
___________
(Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức, NXB Hội Nhà văn, 2006).
4.
Ở NƠI ẤY, NHÀ THƠ
(cảm tác từ Apghanistan)
Tao không muốn mầy làm thơ tình buồn
Tao không muốn mầy làm thơ tình
Tao không muốn mầy làm thơ
Tao không muốn mầy làm
Tao không muốn
Tao không
Tao
T
Đơn giản mầy là phụ nữ đã có chồng, con, có gia đình
Đơn giản mầy là phụ nữ đã có chồng, con
Đơn giản mầy là phụ nữ đã có
Đơn giản mầy là phụ nữ
Là của cải là đồ chơi
Đơn giản
Mầy còn muốn gì nữa
Mầy đã có cuộc sống no đủ
Mầy đã có tao
Đã có tao
Có tao
Tao
T
Vô ích làm thơ vô ích suy nghĩ thậm vô ích
tôi sinh ra thật vô ích*
Nadia
sinh ra không vô ích chết đi
không vô ích làm thơ
Nadia
cánh én xẹt ngang cánh đồng chữ nghĩa
bay qua bầu trời tự do
ở nơi ấy em đi, Nadia
anh sẽ đến
địa ngục hay thiên đường
ta lại làm thơ
TỰ DO NADIA TỰ DO
Bông hoa màu đỏ sẫm* NADIA
__________________________
* Bông hoa màu đỏ sẫm: tên tập thơ đầu tay của Nadia Anjuman, nữ nhà thơ trẻ Apghanistan, chết bí ẩn vào ngày 05.11.2005. “Tôi sinh ra thật vô ích” là câu thơ trong tập thơ trên. (Báo Văn nghệ trẻ, 18.11.2007, và nadia.afghawrite.org)
(Ở nơi ấy [thơ thời cuộc], chưa in)
Lời kết:
“Và em, em nói thật cùng các bác: Thuyết phục Ong Phok rời bỏ căn chòi ông còn dễ hơn nói sao cho nhà văn từ bỏ một… nẻo nghĩ”.
*
Trong các cuộc đi lai rai tán gẫu về thơ hoặc có dịp đăng đàn thi thuyết, tôi hiếm khi đọc thơ mình mà, đọc bài thơ của bạn thơ đương thời tôi cho là đáng giá trong năm. Lập dị này rất tiện cho tôi: về cái hay của thơ người thiên hạ thì dễ ăn nói hơn. Bởi vậy, khi anh Nguyễn Hòa đùn cho tôi vụ Tuyển thơ cho vanchuongviet.org, suốt năm ròng tôi đã không chọn nổi cái nào của mình để tán. Nay, nhân (tôi có bài “Viết ngắn 25: Phê bình ‘nhân’”) có nỗi trao đổi qua lại về thơ truyền thống / thơ đổi mới “chạy theo”-“học đòi”, tôi xin mạn phép độc giả trích một lượt 4 bài, với nhời bàn dzui dzẻ như sau:
Bài 1. Bài “Đứa con của Đất” thuộc dòng hậu lãng mạn. Làm nó năm 1990, tôi hạ quyết tâm ăn theo truyền thống Thơ Mới. Thế là nó mươi lần bị xô vào Tuyển khác nhau, nghĩa là có đến mươi vị cho nó là bài khá [của tôi, dĩ nhiên]. Oai nhé!
2. Còn bài “Trong khoảng tối gió mùa” đích thị thuộc truyền thống níu váy thơ tự do nối dài rồi, không chạy vào đâu được. Nó cũng đã bốn lần trình làng. Ờ, mặt mũi cũng tạm coi được.
3. Riêng bài thơ “Ăn chữ” chắc chắn là “chạy theo” phong trào tân hình thức do nhà Khế Iêm mở hàng ở tận Mỹ. Đỗ Vinh có dịch ra tiếng Anh (Eating words), in ở Blank Verse, An Anthology of Vietnamese New Formalism Poetry, USA, 2006. Dù nó chưa sâu sát nỗi lòng tân hình thức như Khế Iêm mong muốn, nhưng dẫu sao nó cũng “đáng giá” với hai người, là… dịch giả và nhà làm tuyển!
4. Làm bài “Ở nơi ấy, nhà thơ”, tôi thử “học đòi” lối viết hậu hiện đại, nhưng rủi ro là nó lọt qua lô hậu nữ quyền luận. Nên, khi bài đăng lên Tienve.org, sáng mở mắt, một bạn thơ nữ nhắn tin khen là nó “cuc hay” (một dẫn chứng mang tính bè phái rất nhảm nhí!).
Thêm: Trong cuộc trả lời phỏng vấn mới nhất vào chiều nay, khi phóng viên hỏi: Và nếu đồng tình, xin ông phân tích một vài trường hợp bị “thơ hậu hiện đại”, “thơ tân hình thức” cám dỗ? tôi đã trả lời như vầy:
- Cám dỗ, tốt lắm. Chứ ở lì mãi hệ mĩ học cũ, hỏi thơ Việt sẽ đi đâu về đâu? Này nhé, cứ xem gương [sáng/mờ] Trần Tiến Dũng cũng đủ rõ. Đây có lẽ là một ca nhảy liều lĩnh độc đáo. Trần Tiến Dũng - một trong rất ít nhà thơ đặc trưng của miền Nam 20 năm qua - sau hai tập thơ đầu Hiện và Khối động theo truyền thống thơ tự do-siêu thực, đột ngột bẻ ngoặt hướng mới, khác lạ, như thể một cú gẫy: sáng tác theo trào lưu tân hình thức, sau đó: hậu hiện đại. Thử nghĩ, nếu anh “hưu non” ở tự do-siêu thực, hỏi thơ anh sẽ đi đâu về đâu? Dậm chân tại chỗ là cái chắc.
Mà Trần Tiến Dũng đâu phải là trường hợp cá biệt.