Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.190
123.204.789
 
Góp một cách nhìn về Lịch sử Nhật Bản
Hà văn Thùy

Lịch sử Nhật Bản là cuộc tranh chấp dai dẳng giữa những quan niệm trái ngược nhau về nguồn gốc người Nhật. Trùm lên những tranh chấp ấy là tranh chấp khác, khốc liệt hơn giữa người Triều Tiên và người Nhật Bản. Dựa vào sự giống nhau nhất định về di truyền và ngôn ngữ, người Triều Tiên cho rằng, tổ tiên họ đã từng thống trị Nhật Bản còn người Nhật lại nói, tổ tiên họ từng chiếm đóng Triều Tiên rồi bắt nô lệ Triều Tiên về nước. Dựa vào truyền thuyết hoang tưởng là con cháu của Nữ thần Mặt trời, người Nhật, với lòng tự tôn dân tộc đã gây bao đau đớn không chỉ cho người Triều Tiên mà còn cho nhiều dân tộc Đông Á khác. Ngày nay, Nhật Bản và Hàn Quốc là hai động lực kinh tế ở khu vực nên mối quan hệ giữa hai cường quốc này có tác động lớn tới sự ổn định của châu Á. Vì vậy, việc minh định nguồn gốc của người Nhật Bản có ý nghĩa thời sự đặc biệt.

 

1. Toàn cảnh lịch sử, ngôn ngữ, di truyền người Nhật Bản 

 

Từ cổ sử Trung Hoa, từ biên niên sử Nhật Bản, Triều Tiên, từ khảo cổ học, ngôn ngữ học và những nghiên cứu di truyền học mới nhất, bức tranh toàn cảnh lịch sử Nhật Bản được mô tả như sau:

 

Vào thời Băng hà, mực nước biển thấp hơn hôm nay khoảng hơn 100 met. Có những cầu bằng đất nối các đảo của Nhật Bản với nhau và với đất liền, cách 110 dặm với Nam Hàn, 190 dặm với Nga và 480 dặm với Trung Quốc. Động vật và con người đã theo những cầu đó tới Nhật Bản. Khoảng 30.000 năm trước, Nhật Bản đã có người sinh sống. Khoảng 13.000 năm trước, băng tan, nước biển dâng bằng mức ngày nay. Các hòn đảo Nhật Bản cô lập với nhau và tách khỏi đất liền châu Á. Nhưng cũng do biến động này mà điều kiện sống ở Nhật trở nên thuận lợi: khí hậu ấm áp hơn, lượng mưa hàng năm lớn, tập trung vào mùa hè khiến những cánh rừng mọc lên tươi tốt, cho nhiều trái cây như hồ đào, hạt dẻ và sồi là nguồn thức ăn phong phú, được dự trữ qua mùa đông. Vây quanh những hòn đảo là biển nông, nhiều tôm cá, sò hến. Các nhà khảo cổ phát hiện tại di chỉ Jomon có tuổi 12.700 năm, trên bờ phía bắc đảo Kyushu ở cực nam Nhật Bản gốm văn thừng, được gọi là gốm Jomon. Và Jomon cũng được dùng đặt cho người Nhật cổ. Khảo sát hàng trăm di chỉ của người Jomon, các nhà khảo cổ học cho rằng họ là những người săn-hái và sống định cư, đánh cá bằng lưới, bắn thú bằng cung tên và đi săn bằng chó. Người ta cũng xác định được 64 loại thực vật ăn được trong rác của người Jomon. Trong số thức ăn này không có sự phân biệt rõ ràng giữa cây trồng và cây hoang dại. Điều này cho thấy ở người Jomon chưa biểu hiện rõ nét khả năng thuần dưỡng cây trồng. Khoảng 1000 TCN tới giai đoạn kết thúc của thời kỳ Jomon, vài hạt gạo, lúa mạch và cây kê là những ngũ cốc chủ yếu của Đông Á, bắt đầu xuất hiện. Những manh mối lờ mờ này có vẻ nói rằng người Jomon đang bắt đầu lối canh tác nông nghiệp trồng rẫy, nhưng rõ ràng còn làm một cách ngẫu hứng nên chỉ đóng góp phụ trợ vào khẩu phần của họ. Người ta đoán rằng, vào giai đoạn cao nhất, nhân số Jomon Nhật Bản có khoảng 250.000 người. Đó là một vũ trụ bảo thủ thu nhỏ mà sự thay đổi qua hơn 10, 000 năm ít đến ngạc nhiên.

 

Khoảng thế kỷ IV TCN, một sự kiện quan trọng xảy ra trên đất Nhật, đó là việc người từ Triều Tiên tới, mang theo kiểu sống mới xuất hiện trên bờ biển phía bắc đảo Kyushu ngang qua eo biển Nam Hàn. Lần đầu tiên thấy ở Nhật Bản những công cụ kim loại, đồ sắt, và nông nghiệp qui mô lớn. Đó là nông nghiệp với những ruộng lúa được tưới nước, những kênh đào, đập nước, bờ đê, thóc lúa và những phần còn lại của lúa gạo được phát lộ ra khi đào khảo cổ học. Những nhà khảo cổ học gọi cách sống mới là Yayoi, sau khi một khu của Tokyo vào năm 1884 phát hiện được đồ gốm đặc trưng đầu tiên. Không giống đồ gốm Jomon, đồ gốm Yayoi rất giống gốm Hàn Quốc cùng thời về hình dạng. Nhiều yếu tố khác của văn hóa Yayoi mới không thể lầm lẫn là từ Triều Tiên và trước đó từ nước ngoài đến với Nhật Bản, bao gồm những hiện vật đồng đỏ, đồ dệt, những hạt thủy tinh, và những kiểu công cụ và nhà cửa.

 

Trong khi lúa gạo là cây trồng quan trọng nhất, nông dân Yayoi giới thiệu 27 vật mới tới Nhật Bản và lợn được nhập tịch. Họ có thể đã canh tác hai vụ, với những thửa ruộng được tưới để trồng lúa trong mùa hè, rồi rút kiệt nước để trồng cây kê, lúa mạch, và lúa mì mùa đông. Tất yếu, hệ thống nông nghiệp thâm canh hiệu quả cao này thúc đẩy sự bùng nổ dân cư tức thời ở Kyushu.

 

Vài thế kỷ sau thấy xuất hiện lần đầu tiên dấu hiệu của sự phân tầng xã hội, thể hiện đặc biệt rõ trong những nghĩa địa. Sau khoảng 100 TCN, những phần đặc biệt của nhiều nghĩa địa được giành riêng cho những mộ của lớp quý tộc, với hàng xa xỉ được nhập khẩu từ Trung Quốc, như ngọc bích và những gương đồng đỏ đẹp. Sự bùng nổ dân cư Yayoi xảy ra, và những những miền đồng bằng thích hợp cho trồng lúa được mở rộng. Bằng chứng khảo cổ học gợi ý rằng chiến tranh trở nên ngày càng thường xuyên: sự sản xuất hàng loạt những đầu mũi tên, những hào phòng thủ bao vây những làng xóm, và những bộ xương chôn dưới đất bị tên xuyên thủng. Những dấu vết như vậy của chiến tranh trong xã hội Yayoi Nhật được chứng thực sớm nhất trong những cuốn sử biên niên Trung Hoa, ở đó mô tả đất của Wa (người Nhật) và trăm đơn vị chính trị nhỏ của nó đấu tranh lẫn nhau.         

 

Trong thời kỳ từ 300 tới 700 năm sau CN, cả khảo cổ học lẫn những ghi chép mơ hồ trong sử biên niên sau đó bộc lộ hình ảnh lờ mờ của một Nhật Bản hợp nhất về chính trị. Trước thế kỷ III, những mộ quý tộc còn nhỏ và thể hiện nhiều kiểu thức mang tính đa dạng khu vực. Bắt đầu thế kỷ III, ngày càng nhiều những mộ đất khổng lồ gọi là kofun, trong hình dạng của những ổ khóa (keyholes), được xây dựng khắp vùng cựu Yayoi từ Kyushu đến Bắc Honshu. Kofun có tới 1. 500 feet dài và hơn 100 feet cao, làm cho chúng trở thành những mộ đất có lẽ lớn nhất trên thế giới. Số lượng vĩ đại lao động đã được huy động để xây dựng chúng và sự giống nhau về kiểu dáng của chúng trên khắp Nhật Bản ngụ ý rằng có những người cai trị hùng mạnh đã huy động được một lực lượng lao động to lớn, cũng có nghĩa có chính trị hợp nhất. Những kofun đã được khai quật chứa đựng hàng hóa được chôn cất lãng phí, nhưng những cái lớn nhất còn chưa được đào bởi vì chúng được cho là chứa đựng những tổ tiên của nhà vua Nhật. Bằng chứng rõ ràng của sự tập trung chính trị mà kofun cung cấp, củng cố những tài liệu về những hoàng đế Nhật thời kofun được viết nhiều năm sau đó bằng tiếng Nhật và những sử biên niên Triều Tiên.

 

Cuối cùng, với sự hoàn thành sử biên niên đầu tiên vào năm 712 đã đưa Nhật Bản vào trong ánh sáng đầy đủ của lịch sử. Kể từ 712, những người đang sống trên đất Nhật Bản hiển nhiên là người Nhật, và ngôn ngữ của họ (được gọi là tiếng Nhật cổ) cố nhiên là cội nguồn của tiếng Nhật hiện đại. Hoàng đế Akihito, người đang trị vì hôm nay, là con cháu trực hệ đời thứ 82 của vị Hoàng đế được chép trong cuốn sử đầu tiên viết năm 712 đó. Theo truyền thuyết, ông được coi là con cháu trực hệ đời thứ 125 của hoàng đế đầu tiên hoang đường Jimmu, người vĩ đại, chắt trai bốn đời của Nữ thần Mặt trời Amaterasu. Trong thời Yayoi, dân cư Nhật Bản gia tăng tới tới 70 lần, một tỷ lệ đáng kinh ngạc.(1)

 

Khảo sát di cốt người Nhật, cổ nhân chủng học mô tả như sau:

Xương cốt Jomon và Yayoi, có thể dễ phân biệt trên những chỉ số trung bình. Người Jomon có vẻ thấp hơn, với cánh tay tương đối dài, chân ngắn, hố mắt rộng hơn, mặt ngắn hơn và rộng hơn, và dấu vết hình thể ở mặt thể hiện rõ ràng hơn, với vòm mày, sống mũi và  cầu mũi nổi lên. Người Yayoi  trung bình cao hơn một tới hai inchs, hố mắt hẹp, mặt cao và hẹp, mũi và chân mày phẳng. Đặc biệt đáng chú ý:  một số bộ xương thời kỳ Yayoi có vẻ ngoài còn tựa như Jomon, khơi gợi hy vọng một giả thuyết nào đó về sự chuyển tiếp Jomon -Yayoi. Bởi thời kỳ kofun, mọi bộ xương Nhật ngoại trừ của Ainu, tạo thành một nhóm tương đồng, giống với người Nhật và người Triều Tiên hiện đại. (1) 

 

Một điểm quan trọng của toàn cảnh Nhật Bản là những đặc điểm về ngôn ngữ:

Mọi người đồng ý rằng tiếng Nhật không có quan hệ chặt chẽ với mọi ngôn ngữ khác trên thế giới. Đa số trường phái cho rằng nó là một thành viên cô lập của gia đình ngôn ngữ Altaic châu Á, có ngôn ngữ Turkic, Mông cổ, và Tungusic. Tiếng Triều Tiên thường cũng được xem xét như là một thành viên cô lập của gia đình này, và trong gia đình, tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên có thể gần gũi nhau hơn so với những ngôn ngữ Altaic khác. Tuy nhiên, những sự giống nhau giữa tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên được thể hiện bởi những đặc tính văn phạm chung và khoảng 15% những từ vựng cơ bản. Những nghiên cứu ngôn ngữ gợi ý rằng tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên phân ly ít nhất 4, 000 năm trước. Trong khi đó, ngôn ngữ Ainu, những nguồn gốc của nó gây ra sự nghi ngờ là có thể không có bất kỳ mối quan hệ đặc biệt nào tới tiếng Nhật. (1)

 

Nguồn gốc người Nhật càng phức tạp thêm bởi sự có mặt ở Nhật Bản những người văn hóa săn hái gọi là Ainu. Giờ Ainu chỉ sống sót trên hòn đảo phía bắc của Hokkaido nhưng vài thế kỷ trước đây họ là một thành phần quan trọng của dân cư hòn đảo chính Honshu. Ainu khác với người Nhật ở chỗ nước da sáng và thân thể nhiều lông hơn. Họ thường được gọi với danh xưng “Ainu rậm lông”.

Để giải quyết câu hỏi di truyền học, những nhà nghiên cứu khảo sát sự có mặt của một gen đặc biệt trên Y-chromosome, được gọi là Y Alu - phần tử đa hình thái (YAP). Nó phát triển trong một lịch sử tương đối gần đây và không phải mọi con đực đều có gen này. Michael Hammer tại Trường đại học Arizona ở Tucson và Satoshi Horai của Viện Di truyền học Quốc gia Nhật Bản nghiên cứu biến cố của gen YAP trong những dân cư châu Á. Họ thấy gen YAP  không xuất hiện ở đàn ông Hàn Quốc hay Đài Loan. Nó chỉ có ở đàn ông Nhật và cũng chỉ phân bố tại khu vực đặc biệt. Gen YAP chỉ xuất hiện trong những người Ainu sống phía bắc và phía nam Nhật Bản. Ở trung tâm Nhật Bản, gen YAP không thấy. Điều này gợi ý rằng gen YAP đã phát triển trong số Jomon và được tiếp tục đi qua tới Yayoi do sự hòa trộn chủng tộc.                     

 

Hammer và Horai nghiên cứu sự phân phối của gen khác trên Y-chromosome. Trong trường hợp thứ 2, những đàn ông ở Hàn Quốc sở hữu gen này và nó cũng thường được tìm thấy ở miền Trung Nhật Bản. Kết luận từ sự nghiên cứu là có một sự trộn của Yayoi và Jomon tại cực nam (Okinawa) và cực bắc nhưng không hề có tại trung tâm của Nhật Bản. Nei Masatoshi của Trường đại học bang Pennsylvania điều tra biến cố của gen này ở đàn ông châu Á. Ông tìm thấy một biến cố nhỏ trong số những người Mông Cổ nhưng có tới 50 phần trăm ở đàn ông Tây Tạng. Điều này gợi ý rằng gen đã phát triển ở Bắc châu Á và được mang bởi những tổ tiên của người Nhật và Triều Tiên tới bán đảo Triều Tiên và bởi những tổ tiên của những người Tây Tạng từ Bắc châu Á đến cao nguyên Tây Tạng. Đây có lẽ là bằng chứng đầu tiên về những người Tây Tạng là những con cháu của những người di trú từ bắc châu Á. Bằng chứng xuất hiện chỉ báo rằng người Nhật phần lớn là những con cháu của Yayoi với sự pha trộn nào đó với Jomon ở cực bắc và cực nam.  (2).               

 

II. Những quan niệm hiện hành

 

Hiện có nhiều giả thuyết về nguồn gốc người Nhật. Dưới đây xin tóm lược những quan niệm đó.

 

Giả thuyết thứ nhất: tự những người săn-hái Jomon dần dần tiến triển thành người Nhật hiện đại. Việc họ sống ổn định trong những ngôi làng suốt hàng nghìn năm, họ có thể đã thích ứng để chấp nhận nông nghiệp. Tại sự chuyển tiếp Yayoi, xã hội Jomon có lẽ không nhận được gì hơn những hạt giống lúa chịu lạnh và kinh nghiệm về sự tưới nước của Hàn Quốc, cho phép sản xuất nhiều thức ăn hơn và tăng nhân số. Lý thuyết này quyến rũ nhiều người Nhật hiện đại bởi vì nó giảm thiểu tối đa sự đóng góp không được chào đón gen Triều Tiên vào vốn gen Nhật trong khi vẽ ra chân dung người Nhật như tộc Nhật Bản duy nhất ít ra từ 12, 000 năm qua.         

 

Giả thuyết thứ hai: cho rằng sự chuyển tiếp Yayoi thể hiện sự di cư hàng loạt của những người nhập cư từ Hàn Quốc, mang tiếng Triều Tiên, kinh nghiệm canh tác, văn hóa, cùng nguồn gen. Theo một ước lượng, Nhật Bản Yayoi nhận vài triệu người nhập cư từ Hàn Quốc, hoàn toàn chôn vùi đóng góp di truyền học của người Jomon (phỏng đoán có khoảng 75, 000 người trước khi sự chuyển tiếp Yayoi). Như vậy, người Nhật hiện đại là con cháu của những người nhập cư Triều Tiên, những người phát triển nền văn hóa của mình trong 2, 000 năm trở lại đây. Nhiều tác giả phương Tây và Hàn Quốc ủng hộ giả thuyết này. 

 

Giả thuyết thứ ba: chấp nhận bằng chứng sự nhập cư từ Hàn Quốc nhưng không phải là nhập cư hàng loạt. Thay vào đó, nông nghiệp hiệu quả cao có thể đã cho phép một lượng nông dân trồng lúa nhập cư khiêm nhường, sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn người săn hái Jomon và dần dần đông hơn họ. Cũng như giả thuyết thứ hai, thuyết này xem xét những người Nhật hiện đại chịu tác động yếu ớt từ người Triều Tiên nhưng miễn trừ sự nhập cư quy mô lớn.     

Ngoài ra còn 2 giả thuyết khác:

 

Tự tôn về nòi giống của mình, người Nhật chịu một sức ép cho rằng, họ có văn hóa và bộ gen khác, nhận được từ người Ainu sống trên những hòn đảo cực bắc Hokkaido.

Một thuyết khác cũng được sự ủng hộ rộng rãi là, người Nhật được thừa kế từ những người cuỡi ngựa từ châu Á, đi xuyên qua Hàn Quốc, nhưng không phải người Hàn Quốc, đã chiến thắng Nhật Bản ở thế kỷ IV TCN.

 

III Quan niệm của chúng tôi

 

1. Về người Jomon

 

Là bộ phận của địa văn hóa Á Đông nên sự xuất hiện tổ tiên người Nhật không thể tách khỏi quá trình hình thành dân cư Đông Á. Chúng tôi xin tóm lược quá trình này như sau:

Người Khôn ngoan Homo sapiens gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid từ châu Phi theo bờ biển Nam Á tới Việt Nam 70.000 năm trước. Họ hòa huyết cho ra 4 chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Nhờ điều kiện sống thuận lợi, nhân số tăng nhanh, lan ra khắp lục địa Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, do khí hậu phía bắc ấm hơn, người từ Đông Dương đi lên khai phá đất Trung Quốc sau đó lên Siberia, rồi vượt eo Bering sang châu Mỹ.(3) Ở Trung Hoa, do sống phân tán trong những địa hình và khí hậu khác nhau, người Việt cổ phân ly thành hơn 20 nhóm địa phương, được lịch sử gọi là Bách Việt.

 

Do Nhật Bản xa và lạnh nên khoảng 30.000 năm trước người Việt cổ mới đặt chân tới. Đó chính là người Jomon. Nhân đây cũng xin nói ít lời về gốm Jomon. Tác giả Jared Diamond cho rằng, do điều kiện sống thuận lợi nên người săn hái Jomon sống định cư tập trung và sáng tạo gốm văn thừng. Điều này nghe ra có vẻ có lý nhưng không thể không tính tới một sự thật: vì sao suốt 10.000 năm tồn tại mà  gốm Jomon hầu như không thay đổi? Nếu thực sự là người phát minh ra gốm văn thừng thì chắc chắn rằng với cảm hứng sáng tạo sẵn có, người Jomon sẽ sáng tạo nhiều kiểu gốm khác, như người ở đất liền đã làm được. Điều này không xảy ra chứng tỏ người Jomon thụ động tiếp nhận gốm văn thừng từ người khác. Vì vậy, chúng tôi nghiêng về phía những tác giả khác, đặc biệt là Stephen Oppenheimer khi ông cho rằng, gốm Jomon là do người Hòa Bình đưa tới trước khi nước dâng (4)

 

2. Về người Yayoi.

 

Trong 10.000 năm tồn tại, do điều kiện cô lập nên về sinh học, người Jomon hầu như không có biến đổi. Trong khi đó, tại đất liền, có những biến đổi lớn, không chỉ về phương thức sống mà còn về di truyền. Khoảng 5000 năm TCN, tại trung lưu Hoàng Hà, người Mogoloid phương Bắc tiếp xúc và hòa huyết với người Bách Việt Australoid sinh ra chủng Việt mới là Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ nhân văn hóa Yangshao (Ngưỡng Thiều) (5). Khoảng 2600 TCN, cuộc xâm lăng lớn của người Mongoloid phương Bắc diễn ra, một bộ phận người Bách Việt dùng thuyền di tản khỏi lưu vực Hoàng Hà, theo gió Bấc xuống Việt Nam và các hải đảo Đông Nam Á. Người Mongolod phương Nam trong dòng di tản hòa huyết với người bản địa, sinh ra những người Mongoloid phương Nam mới. Đây là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Cho tới 2000 năm TCN, đại đa số dân cư Đông Nam Á chuyển thành Mongoloid phương Nam (6). Sự kiện này cũng diễn ra trên đất Trung Hoa, cho tới 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư trên đất Trung Hoa là Mongoloid phương Nam. Trên đất Triều Tiên, tình hình cũng diễn ra tương tự.

 

Thế kỷ IV TCN, nhà Chu tan rã, Trung Quốc lâm vào thời Chiến Quốc, xảy ra những cuộc chiến tranh liên miên giữa những thuộc quốc của nhà Chu và những quốc gia Bách Việt còn độc lập. Chiến tranh khốc liệt đẩy một bộ phận Bách Việt mà sử Trung Hoa gọi là Đông Di lánh nạn sang bán đảo Triều Tiên rồi từ đó họ tràn tới Nhật Bản. Cuộc di tản như dòng nước lũ cuốn theo những nông dân nghèo Triều Tiên đi tìm vận hội mới. Khó có khả năng cuộc di cư này do người Triều Tiên chủ động, bởi thời điểm đó, người Triều Tiên chưa thực đông và cũng chưa hội đủ sức mạnh để làm cuộc di dân lớn đến vậy – có dự đoán tới vài triệu người. Có lẽ hợp lý hơn là sự “dồn toa” dây chuyền do khủng hoảng dân số ở Trung Quốc tác động tới. Trên đất Nhật, những người nhập cư này được gọi là người Yayoi. Chắc chắn rằng, vào thời điểm này, trong thành phần Đông Di cũng như người Triều Tiên, còn một lượng người Việt cổ thuộc nhóm loại hình Australoid, đồng chủng với Jomon. Vì vậy, theo nghĩa nào đó, người Yayoi đồng chủng với Jomon, có thể có những nhóm còn chung ngôn ngữ nữa. Vì vậy, có cơ sở để cho rằng, cuộc di dân của Yayoi là nhập cư hòa bình. Một cách tự nhiên, người Jomon tiếp thu phương thức sản xuất cũng như nguồn gen từ người mới tới.

 

3. Người Nhật hiện đại  

 

Chúng tôi cho rằng, phần lớn người Yayoi nhập cư thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Khi hòa huyết với người Jomon bản địa thuộc nhóm loại hình Australoid, đã sinh ra lớp người Mongoloid phương Nam mới, chính là tổ tiên người Nhật hiện đại. Khi lai với người Mongoloid phương Nam, nguồn gen Mongoloid trở nên áp đảo, che khuất yếu tố Australoid của Jomon. Điều này dẫn tới những ý kiến sai lầm cho rằng người Jomon không tham gia vào việc hình thành người Nhật hiện đại. Việc tìm thấy những di cốt đang chuyển hóa từ Jomon sang Yayoi là bằng chứng thuyết phục. Hiện tượng như vậy cũng thấy ở Việt Nam, rõ nhất tại di chỉ Mán Bạc, Ninh Bình (6).

 

Phương án của chúng tôi hóa giải được mâu thuẫn: người Nhật Bản trẻ về di truyền nhưng ngôn ngữ lại cổ? Người Nhật Bản chỉ ra đời từ sau thế kỷ IV TCN, muộn hơn các dân tộc Đông Á khác khoảng 2000 năm. Chính vì vậy, về di truyền, họ trẻ nhất khu vực. Về ngôn ngữ, người Nhật hiện đại kế thừa ngôn ngữ của người Việt cổ Jomon cùng với ngôn ngữ của nhóm Việt nào đó trong cộng đồng Đông Di thiên cư. Sau thời Chiến Quốc tới thời Tần, Hán, người Đông Di bị Hán hóa nên mất ngôn ngữ gốc. Trong khi đó những người di tản 2400 năm trước vẫn duy trì ngôn ngữ tổ tiên trên đất Nhật. Đó có thể là lý do vì sao ngày nay không thấy ngôn ngữ nào trên đất liền châu Á giống với ngôn ngữ Nhật và người Nhật có ngôn ngữ riêng độc đáo, cổ xưa của mình.

 

Dựa trên đặc điểm ngôn ngữ và di truyền của người Triều Tiên và Nhật Bản, chúng tôi cho rằng: thoạt kỳ thủy, tức là vào khoảng 30.000 năm trước, người Nhật và người Triều Tiên cùng một mã di truyền. Có nghĩa là thành phân dân cư hai nước giống nhau. Người được gọi là Jomon không chỉ sống ở Nhật Bản mà cũng sinh sống trên đất Triều Tiên. Có hai khả năng dẫn tới điều này: người Việt cổ tới Nhật  rồi từ đó tràn sang Triều Tiên theo những cầu bằng đất nối hai lãnh thổ. Cũng có thể người Việt cổ từ Trung Hoa tới Triều Tiên rồi sang Nhật. Suốt thời gian dài, giữa hai lãnh thổ duy trì tình trạng như vậy. Chỉ từ sau 2600 năm TCN, với cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, người Bách Việt thuộc chủng Mongoloid phương Nam tràn tới Triều Tiên, làm cho người ở đây biến đổi cả về di truyền lẫn ngôn ngữ. Chính ở thời điểm này, ngôn ngữ Triều Tiên và Nhật Bản phân ly.

 

4. Người Ainu

 

Dựa vào ngoại hình cũng như quan hệ di truyền của người Ainu được trình bày ở phần trên, chúng tôi cho rằng nguồn gốc của họ như sau:

 

Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Á đi tới cao nguyên Tây Tạng, rồi từ đây sang Trung Á. Khoảng 30.000 năm trước do trời bớt lạnh hơn, họ đi vào châu Âu. Tại đây họ hòa huyết với những người từ bán đảo A rập cũng vừa lên, tạo ra chủng Caucasoid, là tổ tiên người châu Âu hiện đại. Khoảng 20.000 năm trước, có những nhóm người từ Trung Á trở lại Tây Tạng. Do tiếp xúc với người châu Âu nên trong máu họ có gen Caucasoid. Từ Tây Tạng họ di cư lên Đông Bắc Á để vượt eo Bering sang châu Mỹ.(7) Trên đường hành trình, có những nhóm dừng lại định cư trên một số hòn đảo cực bắc và cực nam  Nhật Bản. Đó chính là người Ainu. Do sống biệt lập nên người Ainu chỉ hòa huyết với một bộ phận nhỏ người ở bắc và nam Nhật mà không góp phần vào nguồn gen của người Nhật hiện đại. Đấy là nguyên nhân không thấy gen Ainu ở trung Nhật, nơi tập trung phần lớn dân cư Nhật Bản.

 

Kết luận

 

Thiết tưởng, với trình bày trên, chúng tôi đã giải quyết thỏa đáng vấn đề nguồn gốc người Nhật hiện đại. Nói thỏa đáng vì phương án của chúng tôi không mâu thuẫn với những dữ liệu lịch sử, ngôn ngữ, di truyền người Nhật hiện có. Không những thế, nó nhất quán với sự hình thành dân cư Đông Á. Thỏa đáng còn vì nó hóa giải được những nghi án tồn tại từ lâu như vì sao người Nhật trẻ về sinh học nhưng lại có ngôn ngữ cổ. Nó giải thích được sự tham gia của yều tố Triều Tiên trong di truyền và ngôn ngữ Nhật. Nó cũng truy tìm được gốc gác thực sự của người Ainu, xếp họ vào nhóm riêng, loại trừ ý tưởng sai lầm coi Ainu là hậu duệ của người Jomon rồi từ đó cho rằng người Jomon không có vai trò gì trong việc hình thành người Nhật hiện đại.

Như vậy là, cùng với người Triều Tiên, Trung Hoa và các dân tộc Đông Á khác, người Nhật Bản cũng là hậu duệ của những tổ tiên từ châu Phi tới Việt Nam 70.000 năm trước.                    

                                                  

Tân Phú, 19. 7. 2008

 

Tham khảo:

1. Jared Diamond: Japanese Roots. Just who are the Japanese? Where did they come from, and when?

http://www2.gol.com/users/hsmr/Content/East%20Asia/Japan/History/roots.html

2. The Genetic Origins of the Japanese

applet-magic.com
Thayer Watkins Silicon Valley & Tornado Ally USA

http://www.sjsu.edu/faculty/watkins/japanorigin.htm

3. J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768.

4. Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở phương Đông.  NXB Lao Động, Hà Nội, 2004.

5.  Zhou Jixi: The Rise of Agricultural Civilization in China. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006

6. Hà Văn Thùy. Tìm lại cội nguồn và văn hóa của người Việt. NXB Văn học. H. 2007.

 7. Stephen Oppenheimer. Out of Eden Peopling of the World

*http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html

Hà văn Thùy
Số lần đọc: 5851
Ngày đăng: 24.07.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thử phân biệt truyền thuyết và lịch sử - Võ Phúc Châu
Nhiệm vụ nghiên cứu sử - Khổng Ðức
Các ý kiến về chiếu cần vương giả mạo - Nhiều Tác Giả
Về cái được gọi là “chiếu cần vương – D’argenlieu – 03-7-1889” - Trần Xuân An
Bàn thêm về cội nguồn dân tộc Việt Nam - Hà văn Thùy
Bàn thêm về thông báo cho thiên hạ cần vương (cáo dụ cần vương), lệnh dụ thiên hạ cần vương & cụm từ “tờ chiếu cần vương của vua Hàm Nghi” - Trần Xuân An
Đức Bổn Sư đạo Tứ ân hiếu nghĩa cùng “Bá gia” quyết trấn giữ vùng biên cương, núi xa - Nguyễn Hữu Hiệp
Việt Nam và những vấn đề ở biển Đông - Giang Tâm
Đô thị ở Nam bộ thời cận đại - Nguyễn Thị Hậu
Bàn lại với ông Trần Trọng Dương : Lâu đài trên mây hay dự cảm sáng suốt? - Hà văn Thùy
Cùng một tác giả
Xứ ra ghe (truyện ngắn)
Nước Mắt Bỏng (truyện ngắn)