7.
Nguyễn Vĩnh Tiến được mệnh danh là người “ bay giữa thơ, nhạc và kiến trúc. Anh cho
biết : “ Tôi thấy trong kiến trúc có nhạc tính, có nhịp điệu, có thi ca của vật liệu, có cảm xúc của không gian và ngược lại trong âm nhạc và thi ca có những kết cấu và biểu hiện của kiến trúc
Về nghệ thuật, anh nghiêng về tinh thần Hậu Hiện Đại. Anh thổ lộ : Tôi đang rất thích nghệ thuật hậu hiện đại, nói đúng hơn là tinh thần hậu hiện đại. Đó là những mảnh rời rạc không liên kết, không bị ràng buộc, vô cùng tự do.Cuộc sống đầy những lát cắt khác nhau, thậm chí là nhát cắt dở đột ngột bị nhát cắt khác cắt ngang, hoặc đổi hướng, hoặc bị tác động không ngừng, và đó chính là hậu hiện đại, nó là thứ tổng hợp, đầy cảm xúc (5)
Một cội nguồn sáng tạo khác nữa làm nên Nguyễn Vĩnh Tiến là gia đình và quê hương. Anh khẳng định : Ở thế hệ chúng tôi, chất dân gian rất tự nhiên, nó thấm thía vào trong người qua những chương trình trên radio và những đoàn văn công lưu diễn. Tôi sinh ra trên quê hương của hát xoan, hát ghẹo Phú Thọ - một kho tàng âm nhạc rất phong phú. Chú tôi là nhạc sĩ và ngay từ nhỏ, ông đã dạy tôi rất nhiều bài hát cổ.(6) Tuổi thơ của tôi phải xa mẹ nhiều vì mẹ tôi hết học ở Hà Nội lại đi công tác nước ngoài... Tôi đã sống một tuổi thơ của mình với bố, các em của mình, với bà ngoại. Một ấn tượng làm nên bài thơ cũng như chất liệu cho bài hát chính là bà luôn đưa các cháu của mình ra đến tận đầu làng và bà đứng ở đó rất lâu tới khi khuất bóng. Khi tôi đã đi xa 1, 2 cây số và quay đầu lại vẫn nhìn thấy một chấm đen giữa cánh đồng mênh mông ấy. ấn tượng đó rất mạnh mẽ và theo tôi suốt cuộc đời.
So sánh với các nhà thơ trẻ khác, Nguyễn Vĩnh Tiến có được một cuộc sống thành đạt, lại có đuợc những cội nguồn sáng tạo phong phú, nhưng những điều ấy có làm nên một diện mạo thơ ca đặc sắc cho riêng anh không ? Anh nổi tiếng ngẫu nhiên nhờ âm nhạc, chủ yếu nhờ công nghệ quảng cáo, bởi vì anh không phải là “ dân chuyên nghiệp” trong làng nhạc. Anh làm thơ chưa nhiều. Tôi nghĩ rằng, anh chưa định hình được một khuôn mặt thơ với những nét riêng về nội dung tư tưởng và nghệ thuật, dù rằng thơ anh ít nhiều đã có những dấu chỉ một khả năng có thể đi xa trên con đường sáng tạo
Những bài thơ có nét riêng của anh làm người đọc xúc động là những bài anh viết bằng ngôn ngữ biểu cảm , thể thơ truyền thống, diễn đạt tinh tế và mới lạ tình yêu gia đình như Ông Tôi, Ba Hôm Nữa, Héo Mòn Một Xâu ( bài này viết thành ca khúc Bà Tôi ).
Ông tôi vẫn chỉ lên trời
Bảo rằng nơi ấy có thời vàng son
Bao nhiêu những cái méo, tròn
Nếu đem cộng lại, chỉ còn số không
Bấy giờ tôi chẳng nghe ông
Toàn đem những thứ mênh mông về nhà
Tôi yêu dàn mướp của bà
Cái kim mẹ giữ, chậu hoa bố trồng
Yêu bài thơ mới viết xong
Dẫu bạn bè đọc, bảo: không hiểu gì
“Một cánh chuồn chuồn”
( bài thơ viết thời sinh viên )
Cười cười một chuỗi
Ta thử bụng ta
Có mùa thóc lép
Lợp trên mái nhà
Có mùa hoa cà
Tự nhiên tím tái
Bà ví lông gà
Vàng như vườn cải
Ông ví mặt trời
Như lời mối lái
Ta ví tình ta
Như trò nghịch dại
Ta lên kẻ chợ
Có buôn được đâu
Khi về lúc lắc
Héo mòn một xâu
Qua đò lộn túi
Anh lái gật đầu.
(Héo mòn một xâu )
Đó là những ký ức tuổi thơ được ghi nhận một cách tài hoa, nó khơi được nhiều tình tự trong lòng người đọc, nó gần gũi như ca dao, đồng dao. ( Bài Héo Mòn Một Xâu còn có hơi thơ Trần Đăng Khoa trong bài Hạt Gạo Làng Ta )
Những bài thơ anh viết bằng ngôn ngữ ẩn dụ chưa định hình một các viết, một khuôn mặt tư tưởng và một cốt cách nghệ thuật. Nhiều ẩn dụ của anh trở thành siêu thực, khiến cho người đọc khó lần ra những điền anh suy tưởng. Những câu chuyện anh kể như trong một giấc mơ hoang tưởng, mà giấc mơ thì không dễ gì giải mã, nó chập chờn mơ hồ, và đôi khi chỉ là do rối loạn tâm lý . Anh lung túng Giữa hoang tưởng và hiện thực, Giữa nghệ thuật và tư tưởng
Tôi gặp cái chết của tôi
Đó là cái que dài vô tận
Giữa một khu rừng trồng toàn những cánh tay người
Khi mặt trăng nhe ra một nụ cười
Tôi che thân bằng một tàu lá chuối
Rón rén đi theo cái chết của mình
Bỗng trên thân que ló một chùm gai bưởi
Máu của tôi từng giọt sáng lung linh
Đi hết khu rừng
Tôi chui vào một căn nhà tranh
Sưởi ấm cùng một người con gái
Bếp lửa bập bùng, suối tóc bập bùng
Bức tường lờ mờ, đôi mắt dại.
Không ai nói một lời
Giữa ngàn cánh tay vẫy
Tôi để riêng cho đôi mắt mình một đôi tay con gái
Khi trời hừng lên - vẫn một cái que dài
Dựng đứng lên bên những que dài khác
Tôi ngước nhìn lên tia nắng chiếu qua mình
Và tiếp tục vươn đôi bàn tay bỏng rát
Không thể kéo được mặt trời vào lòng
Không thể bám vào cái que dài - đi mãi
Không thể quay đầu với khu rừng tay vẫy
Tôi ngả người ra trên bãi cỏ xanh.
(Bãi cỏ xanh)
Anh kể rằng, trong một đêm, trăng nhe ra cười, anh gặp cái chết của anh, “ đó là cái que dài vô tận / Tôi che thân bằng một tàu lá chuối / Rón rén đi theo cái chết của mình . Đi hết khu rừng /Tôi chui vào một căn nhà tranh / Sưởi ấm cùng một người con gái. Khi trời hừng lên/ Tôi ngước nhìn lên tia nắng chiếu qua mình/ Tôi ngả người ra trên bãi cỏ xanh.” .Cái chết của anh là một cái que dài vô tận có nghĩa là gì ? như một giấc mơ hoang tưởng trong đêm có nghĩa gì ? Sau một đêm hoang tưởng, và bất lực với sự hoang tưởng ấy, anh trở về thực tại, ngả người ra trên bãi cỏ xanh.
Tôi nhận thấy sự lung túng tư tưởng của anh là ở chỗ, anh định nói điều gì đó về nỗi chết hiện sinh trần trụi, che thân bằng lá chuối, trong một thế giới như một khu rừng trồng toàn bằng cánh tay người, và bất lực không thể giữ được gì, không thể bám víu được gì, không thể trở lại nơi xuất phát. Nhưng những suy tưởng ấy lại trên một bối cảnh rực rỡ , tươi vui. Có trăng cười, có trời hừng lên , tia nắng chiếu qua mình, có bãi cỏ xanh. Dường như anh an nhiên trong ánh sáng, sự sống , chứ không lạc mất trong hiện sinh quy tử, không thấy cuộc hiện sinh là phi lý là đáng buồn nôn
Cũng có khi anh run sợ trước hiện sinh, tất cả cứ trôi đi, con người trở nên xa lạ, trở nên đất đá hiện hữu nỗi chết
Những bầu trời đang mọc trên tường
Mây trôi đi
Người thấy mình một bức tranh thật buồn thảm
Không mọc nổi mật ngọt
Ngoài tường con chim hót líu lo chợt bay đi
Khách khứa mọc trên tường
Không ai biết hát ca trù
Không ai biết uống cạn giếng nước
Đất đá mọc trên tường
Tiểu sành và khói mộ
Còn ngươi
Hãy cứ đứng đó mà run sợ
(Mọc trên tường )
Có lúc anh cũng cảm nhận được cuộc sống nhàm chán, cả cái chết cũng nhàm chán, vô nghĩa ( Bản Tin Cuối Ngày ) , “ thấy phi lý nhảy dựng lên” và tất cả đều phát điên lên trong những giấc mơ loè loẹt, nhưng anh vẫn bình tĩnh châm thuốc hút, và cười Giữa đống chăm buổi sáng ( Phát Điên ). Giữa những buồn, cô đơn và nhớ quên, anh vẫn nhớ , “ Sực nhớ / Có một ngày xưa/ Có một ngày đung đưa /Có một ngày rất lưa thưa ( Quên Bẩm Sinh ). Bị lạc mất trong những mải mê cuộc đời, Tôi lao như mũi tên mê theo quả bàng chín ẩn hiện trong lá tim, anh vẫn còn những kỷ niệm quê hương và tuổi thơ giữ cho trái tim mình một sức sống tươi trẻ “… Sông Thao lẽo đẽo chảy trong người Trung du thở những cánh cung căng cứng.”( Trung Du ). Anh anh bị hiện sinh rượt đuổi, bị trôi đi trong dòng thời gian, nhưng anh đủ tỉnh táo để trở về hiện thực “ Tôi không muốn trôi đi một cách miễn cưỡng nữa.. Tôi vừa quyết định một cách nghiêm túc/ Rằng tự tôi sẽ dừng lại...” ( Giữa Muà Động Vật Âm Vang )
Có thể cuộc sống thành đạt của anh chưa đủ cho anh trải nghiệm hiện sinh, vì thế trong thơ anh, mới chỉ là những chập chờn siêu thực về hiện sinh ( Bàn tay Muá, Trong Căn Phòng, Bãi Cỏ Xanh ), chưa định hình tư tưởng, có đôi khi loé lên một chút ánh sáng ( Những Ý Nghĩ Trên Đại Lộ Tư Duy ), nhưng tất cả vẫn còn mơ hồ. Bài Con Chồn Hoang được Nguyễn Hữu Hồng Minh cho là một bài hay nhất, nổi tiếng nhất của Nguyễn Vĩnh Tiến thì tư tưởng thơ vẫn chưa hiện hình lên được ( nghĩa là vẫn lúng túng Giữa nghệ thuật thể hiện và tư tưởng chưa định hình )
Tôi nghĩ, nếu Nguyễn Vĩnh Tiến chuyên tâm làm thơ và biết phát huy cái tài hoa của mình, anh sẽ là một khuôn mặt thơ có nhiều nét duyên.
8.
Văn Cầm hải
Văn Cầm Hải không dễ đọc. Cũng như các nhà thơ trẻ khác, VCH sử dụng ẩn dụ. Có những ẩn dụ được liên tưởng quá xa khiến người đọc khó lần ra manh mối điều anh muốn nói.Thơ VCH khó đọc bởi một kiểu thi pháp có những đặc điểm Hậu Hiện đại. Phá vỡ cấu trúc, phá vỡ không gian thời gian, các yếu tố hoang tưởng, ngẫu nhiên đan xen với những ý tưởng chủ đạo. Hiện thực phân mảnh, vung vãi trên mặt giấy.Các câu thơ kết hợp lỏng lẻo, có thể thay đổi vị trí mà không tạo ra sự khác biệt nào. Bài thơ không đóng khung trong một nghĩa cụ thể mà người đọc tự tìm lấy nghĩa cho mình . Đó là một hệ thống cấu trúc mở. Những bài như Hoe Chân Lời, Sinh Tồn, Vĩnh Biệt Mặt Trời..được viết như vậy
“Thuở nào xanh xao
mặt trăng má hồng hiện qua sông mây
cơn đẻ đã đến
kim loại nhành hoa
ngôn ngữ thơm máu thịt
rung rinh lưỡi chàng cuội
rì rào thắp sáng dương gian
trầm tư sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu
thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ
đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay người xin thêm
mồi lửa.”
( Sinh Tồn )
Mỗi dòng thơ là những mảnh vỡ, trải ra không theo một cấu trúc logic . Người đọc cố lắp ghép lại tìm một cấu trúc tư tưởng nào đó, laị bị những yếu tố ngẫn nhiên làm vỡ nát thêm cái cấu trúc mới định hình. Cái tư tưởng mới hoài thai, vỡ nát thành trứng nuớc. Cứ như vậy, người đọc đuổi theo chính mình qua những câu thơ như có ma lực cuốn hút mạnh mẽ, bởi đó là những hình ảnh chưá đựng tư tưởng và nhiều sức gợi.
Ngay câu đầu tiên đã có sứ ngân vang mạnh mẽ Thuở nào xanh xao/ mặt trăng má hồng hiện qua sông mây . Nhưng câu thơ cơn đẻ đã đến / kim loại nhành hoa ném người đọc vào một thế giới khác . Từ kim loại là một yếu tố ngẫu nhiên, ghép bên từ nhành hoa, phá vỡ cái cấu trúc vừa thấp thoáng mơ hồ. Một loạt những từ mang yếu tố ngẫu nhiên như kim loại, ngôn ngữ, bơi chập chững, mồi lưả.. liên tục công phá vào nỗ lực cấu trúc bài thơ để định hình một nội dung, một chủ đề và để lần ra tư tưởng mà VCH muồn nói. Ý nghĩa bài thơ vì thế cứ mơ hồ , ngoài tầm nắm bắt của người đọc.
Có lẽ không nên phí sức để đuổi theo những ảo tưởng như thế, người đọc phải trở về lòng mình ,nhận lấy những gì bài thơ gợi ra cho chính mình. Có thể đọc nội dung bài thơ như thế này : từ thuở xanh xao, mặt trăng hiện qua sông mây, rung rinh lưỡi chàng cuội , ( nói dối như cuội, chưa điều gì là thật ) tức là thời mà lịch sử, ý thức của con người còn mơ hồ, thì sự sinh tồn đã xuất hiện, cơn đau đẻ đã đến, như một màu nhiệm . Đêm lịch sử, đêm của u minh rụng cánh, cuộc sống đơm hoa. Nhành hoa trong câu Kim loại nhành hoa như một chứng ngộ của Cadiep, cất thành lời , ngôn ngữ thơm máu thịt . Lời là sự sống thơm tho. Sự sống tràn khắp nhân gian, rì rào thắp sáng dương gian/ trầm tư sinh khí. Thế nhưng sự sinh tồn khởi đầu là tiếng khóc, dù là tiếng khóc thánh thót , sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc/ tiếng khóc vạn kỷ. Trong sự sinh tồn vạn kỷ, con người mới chỉ bơi chập chững chưa vượt qua đuợc con sông mây thuở nào xanh xao , cần mồi lưả ( ngọn lưả của Prométhée – bi kich của Eschyle . 525-456 tr. CN ) sưởi ấm đêm mới vừa rụng cánh. Bài thơ hiện ra sự trầm tư của VCH về sinh tồn qua cái nhìn Phật Giáo
Đó chỉ là một cách đọc, một cách hiểu, không chắc gì như nội dung tác giả định nói. Dù vậy cấu trúc mở của bài thơ cho phép người đọc tham gia vào tác phẩm và tự tìm lấy ý nghĩa cho mình.
Vâng, nếu VCH nói cái ý như tôi đã hiểu ở trên thì thơ anh đã đạt tới tư tưởng đi tìm tới cái tận cùng khởi nguyên ý thức về sinh tồn. Bài Giếng Đôi tiếp tục hành trình tư tưởng ấy.Anh suy tư về Phật, về Chuá : “Vận trời vô thường nên có gì đâu thấy được cõi vĩnh hằng nhưng không vì vậy mà không gắng sức hóa giải cho đời sống những sản vật của ý thức đã làm nên muôn màu thế giới”..” văn minh tự do đi trên những đường biên sinh tử khóc cười ma quỷ hồn nhiên tiên giới nạ dòng hợp hôn một cõi ta bà không màng thanh trì tâm giới không cỏ êm gió lặng bói trời qua mây ngắm người qua mắt chỉ mong chân bùn thơm rơm trâu cày phúc âm vỡ nát chiêu thức thần tượng nhận cát là cha nhận hồ là mạ hoài mong hoá thân vào chốn không lời chộn rộn màu sắc soi sáng chủng tử cùng nhau bước qua những hạn độ miên man”..” giọt nước miền samarie / long lanh quẻ tỉnh / xanh nguồn Ô châu / rực rỡ u sầu / trong chiều sâu của hạn hữu đời người một mênh mông thế giới biến dịch trong hai mà một trong một mà hai / trình diễn / âm dương “.
Câu thơ không chấm phẩy, người đọc phải tự ngắt ý để tìm nội dung. VCH luận về tư tưởng Phật , về lẽ vô thường của vạn pháp.., luận về tư tưởng Chuá , trong tường thuật việc Đức Giêsu xin nuớc giếng của người phụ nữ xứ Samarie, để mặc khải cho chị về nước sự sống ( Phúc Âm Gioan, 4,7- 27 ) . VHC cho rằng “ Thánh thần ba hoa “. Nhân gian quê muà nguyên thuỷ tự tình mới là nỗi hoài mong chân bùn thơm rơm, hoá thân vào chốn không lời,..bước qua những hạn độ mien man’ . Quả là đầu óc VCH còn rối rắm lắm khi anh tiếp cận với tư tưởng tôn giáo, bởi vì tôn giáo cần đức tin, không cần lý trí. Chân lý chỉ được mặc khải cho những người đơn sơ . Những người trí tuệ bi mắc bẫy trong chính cái trí tuệ mạng nhện của mình
Rất may là VCH khong viết nhiều về những suy tư như vậy. Thơ anh là tiếng bi thương sâu thẳm của một cuộc tình trắng tay khi người yêu qua sông , cuộc tình không thể quên lãng, để lại những vết thương sỏi đá khô đặc nghìn thu. Anh như “ con Sphanh buồn bã /khi bọn cướp đục thủng lấy mất quả tim “( Quên Lãng ), như người đã chết từ lúc nào không biết ( Ảnh Tượng ) , trái tim bị đâm nát ( Vô Tư ) chỉ còn lại cô đơn, tuyệt vọng ( Tình Yêu Của Đất ) như Trương Chi ( Tình yêu ). Kỷ niệm dày vò ( Nhà Năm Tháng ). Nhiều đêm hút thuốc, tàn lưả soi đời mình ( Cô Đơn ) , “ Với trái tim trần trụi / hát bình minh “ (Em) . Anh kêu thương vô vọng khi hình dung ra người yêu “ trong buồng tim cọp dữ (Muà Chết ) . Anh lo lắng cho người yêu : “tôi lo ngay ngáy/ bên ấy /có kẻ nào cầm cung tên hạ trăng. Anh lâm vào bi kịch và những mặc cảm như ÊĐíp, Prômêtê , Hăm lét ( mặc cảm ÊĐip ) Trong tận cùng nỗi bi thương, anh chỉ còn là cái bóng của chính mình “tôi trở thành cái bóng của bóng tôi / đêm mơ không uống lành cốc rượu / bởi cốt cách nghìn năm vốn đã chia ly “( Sinh Ngày 20.1 ).
Xin đọc một bài
Chột dạ nhìn máu thấm qua nhiều trang giấy
thời đại
và tiếng đàn níu kéo
những quả táo rơi vào vực tối
Trương Chi
cũng áo quần đủ loại
mặc trên thân thể thôi
tôi mùa đau cởi áo mắc lên cầu hoang
nhưng mốt đời lận đận
áo rách khâu một ngọn đèn trong mơ.
(TÌNH YÊU)
Trương chi như một ẩn dụ để VCH diễn tả lòng mình : Tôi như Trương Chi, áo rách , đời lận đận, mắc lên cầu hoang thời đại . Muà nào cũng đau, máu thấm qua nhiều trang giấy (thơ) . Tôi như quả táo rơi vào vực tối, trong mơ , dưới ngọn đèn, khâu áo rách đời mình
Có lẽ chưa nhà thơ nào diễn tả được nỗi sâu thẳm bi thương và tuyệt vọng trong tình yêu như VCH. Anh dấu rất sâu nỗi đau của mình trong ngôn ngữ ẩn dụ, anh vùi nó duới mớ ngôn ngữ hỗn độn ngẫu nhiên, để người đọc khó nhận ra nó. Anh thổ lộ chuyện tình bằng trí tuệ, để nỗi đau không chỉ đâm nát trái tim , mà còn đày đoạ anh trong suy tư bi kịch, như tình trạng nung nấu dữ dội khốc liệt của Prômêtê, ÊĐip, Hamlet.
ngồi bên bờ biển cả
gọi đò
nghìn trùng muôn đôi mắt màu mỡ
như bài thơ khó thuộc lòng
cánh vạc đời em mải miết
ước ao ăn những mảnh gan lửa
của chàng Prômêthê
( Tình yêu Của Đất )
Văn Cầm Hải cũng có những suy tư thế sự về chiến tranh ( Chiến Tranh ), về thơ (Apollinair ), anh thương kiếp nghèo ( Thời gian ), anh thương gia đình ông bà , cha mẹ, chị “ trĩu nặng tiếng khóc “ ( Ngôi Nhà xưa Khôn Cũ), đặc biệt là người chị ( Người Đi Chăn Sóng Biển, Đời Chị ). Anh đau đáu nỗi đau miền Trung bão lũ “ xoáy vào long tổ quốc “ ( Đỉnh em ), suy tư về “ đất nước tôi “ ( Kinh Nghiệm xanh ), về thời đại đồ họa “ vỗ mặt lương tâm “ ( Gánh Luá ). .. Ở những bài thơ này, âm điệu thơ là âm điệu tâm hồn, tự nó chưá đựng nội dung, vượt qua câu chữ. Nếu chỉ sa đà vào câu chữ thì người đọc sẽ bế tắc, như mắc vào lưới không gỡ ra được. Anh có những tứ thơ khá hay, những suy tư sâu sắc, mạch cảm xúc dào dạt, mãnh liệt, nhưng thâm trầm.
Tình ca cắt cổ
dông bão nôn nao tìm anh đòi hoá thơ
lão Ngư ngồi câu trăng trên ngọn thuỷ triều
rong rêu nụ cười xanh biếc
rồi một ngày lũ lừa bỗng đọc sách
kẻ ly dị cầu hôn với thơ anh
dù thời đại lưỡng tính
anh không ăn bóng một thời thơ đã qua.
(APOLLINAIRE)
Tôi tin rằng Văn Cầm Hải còn có thể đi rất xa trên con đường thơ của anh , vì tôi hé thấy anh có khả năng đi rất sâu vào tâm thức, trái tim anh tuôn chảy nguồn mạch cảm xúc mãnh liệt, tư duy ngôn ngữ khá độc đáo , và buớc đầu tiếp cận được với kỹ thuật thơ hậu Hiện Đại về cấu trúc tác phẩm, nó cho phép anh thể hiện được cả những mơ hồ trong sáng tạo, cho người tham gia vào quá trình sáng tạo của anh. Với riêng tôi, những bài thơ tình của anh là một đóng góp đặc sắc vào thơ tình Việt Nam đương đại , VCH như một chân dung rất lạ.
9.
Nguyễn Thuý Hằng là một tác giả có cá tính mạnh, Chị nói : “ Tôi xung khắc với bất kì thế giới / môi trường xung quanh nào. Tôi không thể hòa nhập hoặc thoả thuận được với nó. Có lẽ vì tôi quen sống cách sống của tôi, theo một kiểu phát triển tự do phù hợp nhất. Mặc dù sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, nhưng tôi luôn có cảm giác xa lạ với chính môi trường tôi đang sống. Tôi luôn trong trạng thái “có vấn đề” và “dị ứng” về giáo dục, xã hội... Trong bất kể môi trường nào tôi cũng muốn sống, tìm kiếm và phát triển con người của chính tôi. “ ( trả lời Vietnamnet 02/04/06 ). Tôi nghĩ đó là một phát ngôn nghiêm túc, thẳng thắn. Nó chưá đựng tư tưởng của Nietzsche. “Hãy là mình", câu nói của Nietzsche trở thành châm ngôn sống cho nhiều thế hệ ở phương Tây thế kỷ 20. Tuy nhiên, Ở thế kỷ XXI , mà Nguyễn Thuý Hằng sống với tinh thần ấy, tôi nghĩ chị không mới.
Vậy ý thức sáng tạo của Nguyễn Thuý Hằng có gì mới ? Chị cho biết : “tôi từ chối một cách sống và một lối viết ngăn nắp, có trình tự và tử tế. Nó đả phá những qui tắc và tiêu chuẩn mà cuộc sống đề ra: sự hợp lí, tính thực tế, sự dễ hiểu, khuôn khổ, đạo đức, số đông, bình tĩnh, sạch sẽ. Sự mất phương hướng, té, không cân bằng, mặc cảm, stress, xấu xí, thiếu thốn, đói, không hoà nhập, nói năng lảm nhảm… luôn có chỗ đứng và có lí do của nó.” “..Tôi không có chủ đích về nội dung mà làm tác phẩm dựa trên cảm hứng. Khi hình dung về một tác phẩm, tôi luôn cảm thấy thích hình dáng hơn là ý nghĩa của chúng. Nó khác với những người khác ở chỗ khi sáng tác họ thường bắt đầu từ ý niệm, hay chủ đích còn tôi thì bắt đầu từ sở thích một hình dáng, chất liệu nào đó . Người xem có toàn quyền mở rộng trí tưởng tượng phong phú khi đứng trước tác phẩm nghệ thuật. Tôi rất sợ những "nghệ sĩ" cứ nhăm nhăm chỉ cho người ta thấy bằng được ý nghĩa (hạn hẹp) mà trước đó họ đã cố nhồi nhét vào tác phẩm.”( đd )
Ý thức sáng tạo ấy chính là tinh thần Hậu Hiện Đại, là sự lật đổ những Đại Tự Sự, thay vào đó là những Tiểu Tự Sự . “Quan điểm mỹ học Hậu Hiện Đại mang những đặc điểm như: xoá nhoà ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống thường ngày; phá bỏ những giai tầng văn hoá quý phái và văn hoá đại chúng; phủ nhận tính chất nguyên thuỷ của một tác phẩm nghệ thuật và cho rằng nghệ thuật cũng chỉ là một hiện tượng lập lại; nhấn mạnh đến phong cách trộn lẫn giữa nhân vật và sự can thiệp của chính tác giả vào tác phẩm; tính chất kết dính nhiều mảng kết cấu khác nhau trong cùng một tác phẩm, tựa như một bức tranh khảm có nhiều chất liệu dị biệt, là điều khá phổ biến trong các tác phẩm hậu hiện đại.” ( Nguyễn Minh Quân. chủ nghĩa Hậu Hiện Đại- những khái niệm căn bản- Nguyễn Minh Quân – Vietnamnet 02/11/06) .
Nguyễn Thuý Hằng để cho người đọc có toàn quyền mở rộng trí tưởng tượng phong phú khi đứng trước tác phẩm nghệ thuật mà không áp đặt ý nghĩa chủ quan , đó cũng là quan điểm của Thuyết Người Đọc. Thuyết Người Đọc cho rằng ý nghĩa của tác phẩm là do người đọc quyết định . “ Theo Hirsch, tác giả quyết định ý nghĩa trong khi người đọc tạo dựng liên nghĩa; ý nghĩa chỉ có một và cố định trong khi liên nghĩa có thể thật nhiều và biến đổi theo thời gian. ( Nguyễn Hưng Quốc- Các lý thuyết phê bình Văn Học ) . Như vậy, về nghệ thuật, Nguyễn Thuý Hằng cũng không mới, cũng không đi trước so với những nhà thơ đồng trang lưá. Vấn đề là từ ý thức sáng tạo, NTH co viết thành tác phẩm nghệ thuật độc đáo hay không.
Trước hết hãy đọc vài truyện ngắn của chị, chẳng hạn : Cõng Người lạ, Cô Gái Có Cái Mồm Năm Mươi Lăm chiếc Răng Cắn Phập Mặt Trăng, Thời Kỳ Đỏ / Thuốc Ho- Những Đường Gân Thắt Bím, Gió, Ngủ-Đi Đâu Đó Giữa Trưa. Những truyện ngắn này được viết bằng thi pháp của loại truyện Hiện Thực Thần Kỳ (Magical Realism), kết hợp với cảm thức Hậu Hiện Đại, chuyển tải một vài tư tưởng Hiện Sinh dưới dạng một dụ ngôn. Không phải vô tình mà Nguyễn Thuý Hằng viết tiếp truyện Người chết trôi đẹp nhất trần gian , một truyện ngắn của Gabriel Garcia Márquez. Điều này khiến cho tác phẩm của NTH không dễ đọc .
Bruce Holland Rogers nói về tác phẩm Hiện Thực Thần Kỳ như sau : ” Những tác phẩm hư cấu hiện thực thần kỳ mô tả thế giới thực của những người mà đời sống thực tại của họ khác với đời sống thực tại của chúng ta. Đó không phải là một cuộc thí nghiệm ý tưởng. Đó không phải là phóng tưởng. Chủ nghĩa hiện thực thần kỳ nỗ lực cho chúng ta thấy thế giới này qua đôi mắt khác … các nhà văn hiện thực thần kỳ diễn tả những chuyện bình thường như những điều kỳ diệu và diễn tả những điều kỳ diệu như những chuyện bình thường…. Chủ nghĩa hiện thực thần kỳ là một dạng thức đặc thù của văn chương hư cấu nhắm đến việc trình bày kinh nghiệm của một thế giới quan phi-khách-quan. Những kỹ thuật của nó được dành riêng cho thế giới quan đó, và, trong khi người ta có thể thoạt tưởng rằng chúng cũng giống như các kỹ thuật của loại truyện huyễn tưởng tinh xảo, thì chủ nghĩa hiện thực thần kỳ lại đang cố gắng làm một điều gì khác hơn là chỉ chơi đùa với những quy tắc của hiện thực. Nó đang chuyển tải những thực tế mà những người khác thực sự trải nghiệm, hay đã từng một lần trải nghiệm.” (7) Những đặc điểm ấy đều tìm thấy trong truyện của Nguyễn Thuý Hằng
Cõng Người Lạ là “ câu chuyện kể về một người đàn ông có tấm lưng rộng khủng khiếp”, suốt đời cõng vợ con trên lưng. Bốn đưá con đến mười tuổi thì nhảy xuông đất tập đi, còn bà vợ thì không rời lưng chồng , cả khi đã về già. “ Bà mẹ giờ đây được quấn trong một cái khăn choàng lớn và treo trên lưng bố. Kì lạ thay, cho đến giờ này, khi lưng cũng còng vì tuổi tác, nhưng ông càng ngày càng muốn giữ chặt vợ trên người mình. Hai vợ chồng quấn lấy nhau..”. Phải chăng Nguyến Thuý Hằng muốn nói đến tình trạng cam chịu, ý thức lệ thuộc của các dân tộc, của châu lục đen, và của mỗi người ? Trong thực tế, mỗi người chúng ta cũng phải cõng bao nhiêu thứ gọi là trách nhiệm, và có không ít những kẻ cưỡi trên lưng người khác cả đời không chịu xuống !
Gió là một truyện có nhiều yếu tố “ thần kỳ “. Một túm năm người, không biết từ đâu, đến đến một vùng đất lạ ,có gió khắp nơi tụ về. Họ ăn cát, và đẻ ra hai nắm đất. Họ bắt gió cho vào bao và treo lên để gió bốc mùi xác chềt. Con gái quyết định rủ Bố đến thụ thai cho mình, nhưng khi ông định kéo con gái lên giường thì Bố biến thành gió. Con gái bắt Bố cho vào bao treo lên, “ Khoảng một thời gian dài sau đó, trong một lần nằm mơ, tôi mới biết mình đã rat tay giết bố, con đực già nhất làng, người có công duy trì nòi giống và tạo ra lương thực cho chúng tôi. Ngủ dậy sau giấc mơ đó, tôi ra cây cọc treo xác bố, tháo xuống và mở ra, bên trong cái xác đã xẹp lại, khô như tờ giấy, và tôi hoàn toàn không nhận ra hình dáng ông “. Người đọc sẽ tự hỏi câu chuyện hoang tưởng có tính chất ngụ ngôn này có ý nghĩa gì . Truyện được viết đúng như ý thức sáng tạo của Nguyễn Thuý Hằng : “ Bạn có thể xem nó là trạng thái mông lung, không thực tế, phi lí, kì quặc, quái dị, điên, hoang tưởng, chứng tự kỉ ám thị...Tôi vừa xoá đi một thế giới nào đấy, vừa tạo dựng “những cái gì có thể từ nơi khác thông qua tôi mà đến một nơi khác” mà đồng thời cũng mong tìm một đôi điều quen thuộc ở thế giới tôi thiết lập được “ ( Trả lời Vietnamnet, sđd ) Nguyễn Thuý Hằng viết về một thế giới hỗn mang, phi lý, với ý thức hẳn hoi. Chị nói : “Cõi sáng tạo - cấp độ hỗn mang hoặc sự vô định hình mà bạn nghĩ rằng tôi đang muốn với tới cũng chỉ là một phương thức/hành động của tôi nhằm trả lại cho thế giới bên ngoài sự phong phú.”
Truyện Ngủ-Đi Đâu Đó Giữa Trưa không có yếu tố thần kỳ, nhưng vẫn có khuynh hướng tư tưởng. Peter, một người thợ sưả xe, cũng là một nghệ nhân tuyệt vời. Bỗng dưng anh ta bỏ đi đâu không ai biết. Nhân vật Tôi thấy Peter đi vắng thì vào nhà ăn cắp bộ sưu tập của Peter. Tôi giúp Peter việc sưả xe , thanh toán các món chi tiêu, chờ Peter về. Nhưng hắn đã ra đi không trở về. Tôi đâm nản và ra đi, không biết mình nên xuất phát từ hướng nào và đi bao lâu, đi về một nơi chẳng còn ai thân thuộc, chẳng còn ai quen biết để mà hỏi thăm chốn cũ. Ở mảnh đất xa lạ. Tôi quên mất mình là ai, từ đâu tới. Tôi là một kẻ lãng du, “ đi chỉ để mà đi, và quên sạch hết mọi thứ “. Phải chăng đó là ý thức về sự phi lý và vô nghĩa của cuộc đời, một phạm trù Hiện Sinh , con người không biết mình là ai, từ đâu tới. Sống là đi, không biết đi đâu và quên sạch mọi thứ.
Tôi đã thử đọc vài truyện của Nguyễn Thuý Hằng với sự cho phép của chị, rằng : “Người xem có toàn quyền mở rộng trí tưởng tượng phong phú khi đứng trước tác phẩm nghệ thuật.”, chưa hẳn những điều tôi đọc đã đúng với ý nghĩa câu truyện mà tác giả đặt vào, và bạn đọc có thể tìm thấy những cách hiểu khác . Có vậy tác phẩm mới sinh sôi và người đọc mới thực sự tham gia vào quá trình sáng tạo cùng với tác giả. Các đọc truyện như trên có giúp ích gì cho việc đọc thơ Nguyễn Thuý Hằng không ?
Nhiều bài thơ của Nguyễn Thuý Hằng cũng được viết với một thi pháp như truyện, chẳng hạn: Tôi- Vị Thần Ngủ Quên, Chế Nhạo và Phỉ Báng, Tai Nạn kép, Cinema,Tình Trạng x, Những Tâm Thần Không Đúng Hẹn, Cái chết trước… đó là những câu chuyện có những yếu tố hoang tưởng, nhưng mang thông điệp nhân sinh
Thử đọc cái chết trước
Tôi giành giật nó từ gia đình/ bữa cơm cuối tuần/ bọn trẻ/ câu chuyện làm ăn/ cơn nhức đầu người mẹ/ cưới hỏi lôi thôi của người anh
Tôi kéo nó khỏi những người bạn lâu lâu tặng quà, lái xe đường dài để nói về cuộc sống khi trước
Tôi buộc nó chuyển chỗ ngồi từ quán café quen thuộc, rời bỏ trang sách để ngắm nhìn tôi
Tôi làm tất cả mọi thứ để biến nó thành người khác, không tự điều khiển chính bản thân, nó ngồi nhìn đoàn người chỉ vì tôi đang quan sát họ
Nhưng cũng có lúc nó đòi trở về vị trí cũ, cái giường cọt kẹt, nhìn mạng nhện quen thuộc trên trần nhà
Nó nối dây điện để gọi một vài người quen, mời đi uống beer, tối đến nó làm vài điếu thuốc trước khi ngủ, trầm mình trong bể nước một tiếng đồng hồ, sau đó pha một cốc trà để sẵn trên đầu giường và chợp mắt
Nhưng sáng hôm sau, mọi chuyện vẫn như cũ, tôi vẫn thuyết phục được nó quên đi thói quen đó, chỉ quan tâm đến tôi đang nghĩ gì trong đầu, tôi cảm giác được cái gì, tôi muốn cuộc sống xoay quanh ra sao, những chuyện sắp tới tôi muốn làm
Thế mà, chính tôi cũng không hiểu vì sao vẫn thấy thiếu một điều gì đó, có lẽ vì sự bất ổn đến từ tính tình gần đây
Tổ ấm của chúng tôi là sự chiếm ngự bởi tình yêu duy nhất
Bắt đầu từ đêm hôm qua_la khóc, nghiến răng, ở lì trong bathroom nhìn nước chảy
Từ giường cũ
Con ma trở mình nhìn cái chết trước
Đó là câu chuyện Giữa Tôi với Nó trong bối cảnh gia đình, một câu truyện được kể theo tuyến thời gian, qua cảm nghĩ , hành động của nhân vật tôi. Nhưng Nó là ai, một tha nhân, người yêu, Tôi muốn chiếm hữu nó, biến nó thành người khác. Nhưng có lúc nó đòi trở về vị trí cũ, nó vẫn giữ thói quen gọi một vài người quen, mời đi uống beer, tối đến nó làm vài điếu thuốc trước khi ngủ, trầm mình trong bể nước một tiếng đồng hồ, sau đó pha một cốc trà để sẵn trên đầu giường và chợp mắt.. tôi vẫn thuyết phục được nó quên đi thói quen đó. Thế mà, chính tôi cũng không hiểu vì sao vẫn thấy thiếu một điều gì đó, có lẽ vì sự bất ổn đến từ tính tình gần đây. Tôi như con ma đã nhìn thấy trước cái chết của hạnh phúc gia đình mình. Bài thơ gửi đi thông điệp gì ? Phải chăng con người bất lực trước thực tại. Con người đã chết trong tương quan với kẻ khác, dù đó là người thân yêu?. Tôi liên tưởng đến Ngộ Nhận của A.Camus .Trong đời thường, mỗi người đều có những trải nghiệm như vậy, khi yêu nhau, người ta trói buộc nhau ghê gớm lắm, người ta muốn biến người yêu thành người khác .Hạnh phúc chết trong tham vọng trói buộc tha hoá ấy . Mỗi người trở thành con ma ngay trên giường của mình, ngay trong ngôi nhà của mình, nhìn cái xác chết hạnh phúc của mình
Bài thơ văn xuôi Tôi - Vị Thần Ngủ Quên của Nguyễn Thuý Hắng dường như có bóng dáng cách viết Hậu hiện Đại trong truyện Ngọn Núi Thuỷ Tinh của Donald Barthelme? Yếu tố hiện thực đan cài yếu tố hoang tưởng. Nguyễn Thuý Hằng kể : Thành phố gồm những tòa nhà cao lớn. Dân chúng ngước cổ tôn sùng vẻ đẹp này. Giữa lúc ấy “ một bức tượng cổ, vai đeo giáp sắt, cưỡi một con ngựa, tay cầm một đoạn roi bước xuống bục, chỉ tay vào đám đông, bảo “trả đất cho ta.” Mọi người ngơ ngác, hình như lâu lắm rồi mới thấy một người rừng giữa đô thị như thế này.” Dân chúng cười, dựng bức tượng lên tượng đài cũ . Họ nói “Đây mới là chỗ của ông, cứ đứng yên như thế.”. Họ muốn đưa ông về một nơi xa nào đó, nhưng bức tượng trở nên nặng trịch không sao dở xuống được, họ đành để ông ở đó và buộc thêm xích kéo chân ông lại .” Thành phố, thập kỉ của những em bé, phụ nữ, dân quyền, kết hôn đồng tính, cây cối mọc lan nhanh, chặt bỏ cành dương vật xanh um nẻo đường. Rồi nhà cửa, xe cộ và từng nhà máy rác sạch sẽ bỗng lớn nhanh vùn vụt, ùn ùn xô đẩy những thứ thừa thãi vào một hố chôn sâu nhất. Bức tượng giờ đây là nơi trẻ con thường hay lui tới, đùa giỡn, bày đồ chơi. Còn bệ xi măng nơi ông đứng thành nơi hò hẹn của các bà góa, những cặp tình nhân thường mút kem sữa rồi thở phào trong hứa hẹn. Đôi lúc, họ giật phắt vì ông lại nhảy xuống, đòi lại đất đai.”Nhưng rồi ông đã ngủ thiếp đi giấc ngủ vượt ngàn thế kỉ, ngàn niên đại. lớp người kế thừa đương thời đặt cho ông cái tên vị thần ngủ quên. Nhưng, ông nào có biết.Và bọn nó , Vâng, chính chúng, những đứa trẻ của / tập đoàn khát máu, chuyên săn lùng, chém giết kẻ ngủ quên.
Câu chuyện chưá đựng cái lộn xộn của một thành phố với rất nhiều vấn đề phức tạp . Nguyễn Thuý Hằng mượn một bức tượng nào đó trong thành phố ,hư cấu như một ngụ ngôn , để nói về thời đại của tập đoàn khát máu, chuyên săn lùng, chém giết kẻ ngủ quên. Nhưng chưa hẳn thông điệp chỉ mang những tín hiệu thời sự trực tiếp như thế, mà còn mang cái thao thức về thực tại ngủ quên, giấc ngủ vượt ngàn thế kỉ, ngàn niên đại của dân tộc . Có một sự trùng hợp thú vị về chủ đề Giữa Tôi- Vị Thần Ngủ Quên với Trạng Nguyên Ngủ của Phan Bội Châu. Cả hai truyện đều có cái nhìn thế sự sâu sắc và một giọng trào phúng nhẹ nhàng nhưng buồn thắm thiết. Như vậy, ngay trong những câu chuyện hoang tưởng, Nguyễn Thuý Hằng cũng gửi những thông điệp thế sự có thể làm nhức nhối trái tim đồng cảm với chị. Người đọc hời hợt lười biếng thì chẳng hiểu chị nói gì
Thơ Nguyễn Thuý Hằng còn là tiếng nói của một cái tôi bất an, vô định , cô đơn, xa lạ ngay trong thực tại. quan hệ với người là quan hệ xa lạ .” Giữa tôi và ông /bóng đêm, mùi lữ hành “ ( 1&2) . Nguyễn Thuý Hằng thức tỉnh Giữa mọi ngộ nhận ( Người Chết Trôi Đẹp Nhất Trần Gian )
tôi (thật nguy hiểm, nhưng thích thú, có bao giờ bạn nhàm chán với nỗi
bất an của mình đâu)
(Beckett’s, tôi và Khuyên)
tôi có gương mặt thật xấu xí, vì thế tôi muốn chúng méo mó hơn nữa, trở thành một dị biệt,
xương kéo dài hoặc thình lình thu ngắn lại,chóp mũi hay chóp nhà thờ,
tất cả đều xoay quanh quả địa cầu, lỗ tai, rún, vì chỉ có gương mặt tôi mới có đủ sức
tiếp cận sát bề mặt nóng bỏng đó, mông, má, giấy tờ.
tôi cứ thế quay không ngừng
cả ngày lẫn đêm
tôi rất thích trạng thái đi xiêu vẹo của mình, những người mù nắm tay nhau đi trong
cơn giông bão, thèm băng qua đường trong buị mù xoắn xuýt.
(Những tâm thần không đúng hẹn)
Ví dụ như: tôi - chết mà vẫn nhăn răng cười trên màn ảnh lớn như diễn viên xiếc
Ví dụ như: tôi, sau khi phục sinh, tay vẫn thò vào túi và chơi trò sấp ngửa rồi chỉ tay ra đất trống
Tôi được vùi ngoài kia, bia bọt, lồng kính nhỏ dày đặc các sao hình chiếc mông, nắng ấm, thối rữa, rong chơi bên kia tinh cầu, lũ chim câu bay vù: rên rỉ, khát nước, không đường về
(Thời hôm nay, khoái cảm, điên rồ hợp lí)
Và kia, hình như tôi trong bấn loạn đã viết lên tường lảm nhảm vô lí về một ai đó
Không thể xác định đó là tình trạng gì. Vì đôi khi nóng nực, bức bối làm biến dị tất cả. Tôi không thấy tôi nữa mà là con vật thô bỉ. Đối xử với đồ vật nghiệt ngã và luôn thích nhìn chúng với thất bại thảm thương.Tôi nhớ trong một tuần đã đứng trước đồ vật để nói với chúng về sự thật, đã bày tỏ u uất của tôi và khuyên chúng bằng mọi cách hãy tan biến đi, đừng để bọn người sử dụng và làm cho mới lên [những màu mè tạm bợ, hợp chất và ô nhiễm, đường gân, chất vải, kim loại, gốm sứ…
Tôi không thể kể câu chuyện này với ai được. Tôi trở nên thụ động và chờ người ta bỗng dưng hiểu được để tôi không phải giải thích. Từ lâu tôi ăn nói vòng vo và ngồi suốt buổi nhưng không làm sáng tỏ điều gì. ….( Chế nhạo và phỉ báng)
tôi vẫn chạy trốn
gói gém hành lí biến mất trong tư thế gập người (tay chân còn bấu chặt ghế, ai đó giãy dụa liên hồi…tôi đang mơ tưởng..)
một cái bóng khổng lồ ập lên đám đông, tất cả chạy ra xa trong sự hỗn loạn
“hãy đi đi vào ngã này”_ tiếng loa vắt ngang hàng nghìn người quì gối, họ khóc
tôi vẫn tìm đường chạy
tôi thích sự kiệt sức, tháo mòn hết nước. Khi ấy người ta sẽ cưỡi được lên người tôi, lên mông, lên tai, lên chiếc lưỡi mằm cứng đơ
(GÀO THÉT NỮA ĐI)
Tôi không thể hình dung được rằng, đằng sau một Nguyễn Thuý Hằng có cá tính mạnh mẽ, một năng lực hoạt động và sáng tạo dào dạt, luôn bất hoà gay gắt với thực tại, lại là một nghệ sĩ, một nhà thơ u uất, cô độc, bất an, hoảng loạn chạy trốn,” Tôi không thấy tôi nữa mà là con vật thô bỉ”
Về nghệ thuật, Nguyễn Thuý Hằng có đưa một số yếu tố kỹ thuật mới vào thơ. Thơ của chị là thơ văn xuôi, thơ có tính truyện . Nhiều bài tính truyện lấn át tính thơ . Về kỹ thuật thơ, chị cho biết : “đa số tôi áp dụng sự đa dạng về bố cục trong hội họa, tập hợp ý tứ thành một khối thống nhất và sau đó phá nó đi. Ví dụ như trong bài “Chơi game với Chủ Thể”, sự ngẫu hứng đến từ chiếc bàn vừa để chơi game, vừa có thể ngồi cafe, và tôi thích cách người ta sắp xếp những dòng chữ trong bảng hướng dẫn chơi game với bố cục rất đẹp. Tôi đã viết bài “Chơi game với Chủ Thể” dựa trên bố cục như thế. “ ( Vietnamnet, sđd ) . Hoặc chị vẽ tranh đi kèm với những bài thơ, dùng hình thức nhật ký, thống kê các chi tiết, tập trung vào hình ảnh để tạo ấn tượng.. Tôi nghĩ đó chỉ là những yếu tố kỹ thuật. Yếu tố quan trong trọng là tư tưởng thẩm mỹ và thi pháp , ở chị có sự tương tác phức hợp, tạo nên một diện mạo riêng. Và hơn hết, dưới những câu thơ hỗn độn, nổi loạn, hoang tưởng, bí hiểm… là những thông điệp, chưá đựng những nỗi buồn thế sự, nỗi buồn nhân sinh , nỗi buồn hiện sinh muốn được chia xẻ . Nhưng người đọc chưa kịp nói lời nào với chị thì Nguyễn Thuý Hằng đã vẫy chào chúng ta, phải chăng chị hoài nghi cả chúng ta :
“này nhé, bạn đâu biết rằng mình đã chết từ buổi sáng hôm nọ chúng ta
gặp nhau (và rồi chúng ta mồi chài nhau bằng im lặng)
cứ cái đà liên tưởng, hình ảnh, tôi đã ăn bạn và nhấm nháp từng mẩu
nhỏ trong buổi sáng lượn lờ sài gòn, và quả thật cái đầu bạn cứng lắm,
toàn những kí tự sắt trong đó, xin lỗi vì ăn mà không báo trước, và sau
đó cũng không thèm cám ơn, tục tĩu quá đi mất)
thôi nhé, chấm dứt buổi tối nhỏ
tôi sẽ ra đi với nỗi bất an mới
một tình nhân mới “
(Beckett’s, tôi và Khuyên)
10.
Trần Ngọc Tuấn (8) là người thơ tài hoa, người thơ của tình người, tình đời đằm thắm, nhẹ nhàng, tinh tế, mênh mang. Anh giao cảm xâu xa với người thơ xưa, người thơ nay . Anh đi nhiều, nơi nào anh cũng có những câu thơ giăng mắc tình son, gặp ai anh cũng chia xẻ cái tình nhân gian đau quặn
Một khúc sông quê
Mẹ mấy lần đưa tiễn
Đêm không trăng
Gió buốt
Sông gầy
Mẹ nhóm bếp
Khói bay
Nhoà ngõ
Tiếng ai qua
Cũng ngỡ buớc con về
( Mẹ - Chân Chim Hoá Thạch )
Tôi ngồi tím giọt mưa ngâu
Người ngồi nâng chén bên cầu sông Ngân
Bể dâu ai cũng một lần
Khổ đau cũng chỉ đến ngần ấy thôi
Chúng sinh phách lạc hồn trôi
Thân hoa xác cỏ nhờ tôi tạ lời
( Rằm Tháng Bảy Nhớ Nguyễn Du- Chân Chim Hoá Thạch )
Tự mình quẩy gánh trần gian
Đa mang chấm đất, lang thang dính trời
Một đời không đủ rong chơi
Tự mình hoá cỏ luân hồi nỗi xanh
( Nỗi xanh- Con Mắt Dã Quỳ )
Bao người đến, bấy trái ngang
Tôi xin làm suối giải oan cho mình
( bên Suối Giải Oan – Giữa Cỏ )
Trần Ngọc Tuấn đã xuất bản các tập thơ : Giác quan biển (1994); Giữa cỏ (1996); Chân chim hóa thạch (1998); Con mắt dã quì (2000); Gửi dòng sông Đồng Nai (2004). Tập Suối reo (2006) là một bước thăng hoa tư tưởng của anh .
Nếu bạn hỏi tôi rằng tập thơ Suối Reo có gì đặc sắc ? tôi có thể nói ngay điều này , Suối Reo là một tập thơ Thiền , nhiều bài đạt đến cái thần của những bài thơ Thiền trong truyền thống thơ phương Đông . Đó là một điều lạ , vì Trần Ngọc Tuấn là một nhà thơ trẻ . Những nhà thơ trẻ hôm nay đang loay hoay thử nghiệm với những cách tân phương Tây , thì Trần Ngọc Tuấn lại tìm về phương Đông, “ thung dung tiếp cuộc đăng trình “ Ở Suối Reo , Trần Ngọc Tuấn hiển lộ một cốt cách thơ tài hoa hiếm thấy của thơ trẻ .
Nhưng , dấn thân vào con đường thơ tư tưởng , Trần Ngọc Tuấn phải chọn lựa sự thử thách vượt qua hố thẳm. Cái thiếu lớn nhất của văn chương Việt Nam đương đại nói chung và của thơ nói riêng là thiếu tư tưởng . Nguyễn Huy Thiệp đã từng thốt lên tuyệt vọng : “ Khỏang trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn “ ( Sông Hương – Tháng 4 / 1990 ) . Đã có những thử nghiệm nhưng thất bại .
Tất nhiên Trần Ngọc Tuấn không phải là nhà thơ tư tưởng , nhưng thơ Trần Ngọc Tuấn trong Suối Reo là thơ tư tưởng . Giá trị thẩm mỹ của nó là ở tư tưởng và ở cách thể hiện tư tưởng .Vì thế người đọc chỉ có thể tiếp cận tư tưởng trong thơ Trần Ngọc Tuấn bằng lăng kính của mỹ học Thiền , bằng cái tâm Bát Nhã và cách đọc thơ vô ngôn . Hơn nữa Trần Ngọc Tuấn có kiểu tư duy thơ rất riêng khiến cho thơ anh không dễ đọc . Nhưng khám phá được thế giới nghệ thuật ấy người đọc sẽ nghe thấy suối reo trong tâm hồn mình
Suối Reo có một sự khác biệt với thơ Thiền truyền thống ở chỗ tác giả của thơ Thiền truyền thống là các Thiền sư , còn Trần Ngọc Tuấn là nhà thơ hiện đại . Vì thế Suối Reo là thơ của đời ánh lên sắc Thiền , thơ của một con người còn đang “ qua dốc sương mù “
“ Gánh củi qua dốc sương mù
Mồ hôi giọt gịot gió ù ù bay
Nghìn tia nắng dệt trang ngày
Bước chân hoan hỉ , đêm này lửa reo “
Sống là gánh lấy bao nhiêu nỗi vất vả như người gánh củi . Ngày đêm phải vượt qua con dốc sương mù và đương đầu với gió ù ù thổi bay .Với cách nhìn đời như thế , bài thơ thường sẽ chuyển về những tâm tình thở than . Thế nhưng Qua Dốc Sương Mù lại rực rỡ ánh sáng của sự thăng hoa . Đó không phải là thứ ánh sáng thiên nhiên của nghìn tia nắng , hay ánh sáng của đêm lửa reo , mà là ánh Phật quang . Nỗi vất vả , thống khổ trở thành con đường hạnh ngộ. Người gánh củi kia tự sáng trong “ bước chân hoan hỷ ‘ . Bài thơ không còn là sự minh giải cho ý nghĩa hiện thực mà trở thành khỏanh khắc “ đốn ngộ “ khi con người đã vượt qua được “ dốc sương mù “ , nhìn đời bằng Trí Huệ Bát Nhã ( Prajna- Chữ của nhà Phật )
Nhưng làm sao vượt được “ dốc sương mù “ ? Trần Ngọc Tuấn vẫn đang tự hỏi .
“ Hỏi thăm người trốn chơi xa
Mà sao râu tóc phôi pha bụi trần
Hỏi thăm người biệt giai nhân
Mà sao nhan sắc tần ngần ngóng trông
Hỏi thăm người có hay không
Mà sao chuông vọng âm âm gió mùa “
( Hỏi Thăm )
Trần Ngọc Tuấn đã “ trốn “ , đã “ biệt ‘cuộc đời này , trốn biệt những sắc dục giai nhân , thế sao con người ấy vẫn râu tóc phôi pha vì bụi trần , vẫn ngóng trông nhan sắc giai nhân ? vẫn mê đắm , không hay, không biết , không nhận ra tiếng chuống thức tỉnh , dù tiếng chuông ấy ‘ vọng âm âm “ trong gió mùa ? Hình hài , thân xác , cuộc đời này nặng nề biết bao , nó trói buộc con người mãi trong cõi vô minh .Hỏi cũng là trả lời . Tiếng chuông thức tỉnh ấy là tiếng chuông vọng trong tâm , mà dũng lực của nó có sức khai mở Tâm Bát Nhã
Với Tâm Bát Nhã con người sẽ nhận ra mình đang đánh bắt đời mình
“ Chẳng chấp gì bé lớn
Một mình nghe lặng thinh
Mây trên đầu luẩn quẩn
Ông ngồi câu bóng mình “
( Ngồi Câu )
Một ông ngồi câu trong thinh lặng , mây bay trên đầu . Câu chỉ để câu , không cần được cá lớn hay cá bé. Nhưng ngồi mãi chẳng được con cá nào , bóng ông đổ trên cần câu .
Tất nhiên bài thơ không nói đến việc câu cá. Bỏ cái vỏ ngôn ngữ ấy đi , tư tưởng Thiền bừng sáng lên. Con người luẩn quẩn trong mê trong chấp , không nhận ra mình đanh đánh bắt ( câu cá ) chính mình .Mình vừa là người buông lưỡi câu lại vừa là nạn nhân bị lưỡi câu móc vào . Thực tại hư ảo ( câu không được gì ) mà điều tìm kiến cũng hư ảo ( câu cái bóng ) .Vậy mà con người lại lẩn quẩn móc dính vào cái hư ảo ấy không sao gỡ ra được.
Bài thơ có thể làm người đọc “ ngộ “ ra được điều gì đó về cuộc đời này , về thực tại “ thất vọng , vô thường , vô ngã “ (dukkha, anicca và anatta ) .
Trong cái thực tại thất vọng ,vô thường , vô ngã ấy , con người còn lại gì ?
Đất nứt nẻ đồng khô mùa khát
Ta còn gì ngòai nắng lặng im
Tâm địa chấn rung rùng biển động
Ta còn gì ngòai sóng lặng xô
Mưa trút nước lũ tràn đê vỡ
Ta còn gì ngòai mây lặng trôi
Cây trụi lá trơ thân giông bão
Ta còn gì ngòai gió lặng yên
Mùa cuối đông vườn không ong bướm
Ta còn gì ngòai hoa lặng rơi
Chuyến hạnh phúc còn không vé vớt
Ta còn gì ngòai em lặng đau
Thanh tịnh một vì sao lẻ bóng
Ta còn gì ngòai ta lặng thinh
( Lặng )
Câu hỏi “ ta còn gì “ là câu hỏi của “ hố thẳm “ : “ Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm , một cách im lặng , không hy vọng , một cách rộng lượng “( N. Kazantzaki ) . Con người phải chịu lấy tất cả những phũ phàng , mất còn ở đời , như chịu đựng cơn khát nắng hạn ,chịu đựng những kinh hòang rùng rùng địa chấn ,chịu đựng sự tàn phá của lũ tràn đê vỡ , giông bão càn quét trụi không , chịu đựng giá rét mùa đông vắng bóng sự sống , chịu đựng những nỗi đau bất hạnh và sự cô độc như vì sao lẻ bóng .
Tư tưởng của bài thơ không lộ ra trong cái quay quắt những đau đáu mất- còn , mà hiển minh trong cái im lặng. “ Ta còn gì ngòai ta lặng thinh “ . Sự im lặng bộc lộ tất cả dũng lực vượt qua
có - không . Cái còn tồn tại trong chính cái mất , vượt qua mất –còn là Chân Như .
Bài thơ mang một khí vị Thiền đặc biệt ở thi pháp . Khí vị này đem đến những mỹ cảm trí tuệ cho người đọc . Cái tĩnh trong cái động , cái còn trong cái mất . Những tứ thơ được triển khai trong kiểu tư duy nhị nguyên tương phản còn – mất , dẫn người đọc vào sự rối bời vô minh của ngôn ngữ , cũng như sự rối bời của thực tại có – không . Khi còn có Ta , và khi cái Ta bị nhận chìm trong những khốc liệt địa chấn , giông bão , khô khát , mong chờ hạnh phúc , mong chờ hoa bướm , thì cái Ta ấy còn đau , còn cô độc , còn sợ hãi , còn vọng tưởng …Vì làm gì có “ cái ta “ . Bản chất của “cái ta” là “ vô ngã “ .
Chỉ khi đạt tới cái “ vô ngã “ không bóng , không hình “ , con người mới nhẹ nhàng qua sông ( “ Đáo bỉ ngạn “ – Chữ của nhà Phật )
Nhẹ nhàng cánh nhạn qua sông
Nhạn không lưu bóng , sông không bóng hình
Thung dung tiếp cuộc đăng trình
Mặc con sống vỗ một mình ra khơi “
( Ra khơi )
Đạp lên sóng vỗ mà ra khơi , thung dung như cánh nhạn ruổi rong đăng trình , Con Người ấy có sức mạnh của cả vũ trụ , cao hơn cả vũ trụ .Tứ thơ mang khí vị câu thơ làm rung chuyển thái hư của Không Lộ Thiền Sư
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong đĩnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
( Ngôn Hòai )
Qua sông ( đáo bỉ ngạn ) rồi , lại sống như chưa qua sông , con người hồn nhiên biết bao , cuộc đời tươi xanh biết bao , một đọt lá trên cành cũng trổ sinh bao la sự sống
Đâu ngờ một ngọn gió lay
Mà hoa rơi rụng mà mây tan tành
Đâu ngờ một đọt đầu cành
Rừng xưa lại thắm , mùa xanh lại về
( Đâu ngờ )
Và tất cả cùng tỏa sáng , cùng reo cười .
Trăng tự sáng giữa tầng không
Suối tự chảy giữa mênh mông đất trời
Kìa ai bất chợt tự cười
Trái tim tự hát lẽ đời tự nhiên
( Tự Nhiên )
Niềm hoan lạc vô biên
Suồi reo , biển lặng , sông đầy
Vầng trăng tròn trặn , mây bay yên bình
Cánh én liện , nụ hoa xinh
Tình người chân thật , hồn mình an nhiên
( Kho Báu )
Thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn dẫn ta vào cõi sáng của tư tưởng và cõi an bình của tâm tư và niềm hỷ hoan của bước chân người gánh củi thung dung vượt qua dốc sương mù cuộc đời . Phải có một trình độ “ giác ngộ “ nào đó của tâm thức , phải trải qua bao nhiêu tra vấn , bao nhiêu giông bão, nắng hạn , bao nhiêu mất còn , phải bao nhiêu kiếp hóa thân , Trần Ngọc Tuấn mới có thể viết được những câu thơ của “ trái tim tự hát lẽ đời tự nhiên “ như thế.
Nhiều bài tứ tuyệt có phẩm chất cổ điển nhưng thật mới lạ ( An Nhiên , Trắng , Trên Núi Tuyết , Ngồi Câu , Trà Sớm ..) . Nó vừa dẫn ta về suối nguồn thơ cổ điển vừa làm ta ngạc nhiên về những phát hiện tư tưởng ngay trong đời thường . Bài Ngồi Câu là một cặp sánh đôi rất tuyệt với Giang Tuyết của Liễu Tông Nguyên ( 773-819 ) . Hình ảnh bướm hoa trong Vậy Thôi dẫn ta về vối Xuân Vãn của Trần Nhân Tông . “ giọt sương tan trên lá xanh “ trong Lên Đồi Tịnh Độ mới lạ hơn “ giọt sương phô trên ngọn cỏ “ trong Thị Đệ Tử của Vạn Hạnh Thiền sư . Hình ảnh “ cuối vườn hoa khai “trong Vô Thường phải chăng là một với tứ thơ “ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai “ trong Cáo Tật Thị Chúng của Mãn Giác Thiền Sư ( 1052-1096 ) .Bài Rỗng Rang âm vang lời Thiền : Chư Phật và chúng sinh đều có chung một tánh giác. Chư Phật hằng sống với tim rỗng rang thanh tịnh.
Tứ tuyệt Lục bát của Trần Ngọc Tuấn vừa có cái giản dị chân tình của ca dao vừa có sự sang trọng trí tuệ của Tứ Tuyệt cổ điển .Đó là sự làm mới Lục bát truyền thống , cũng là cách Việt hóa Tứ tuyệt của thơ Đường .. Suối Reo bay trong cái cao rộng của thơ cổ điển , sang trọng hồn nhiên bên cái đằm thắm lục bát thơ Thiền của Phạm Thiên Thư . Và Trần Ngọc Tuấn có cái tài hoa riêng của anh . Tôi tin rằng nhiều bài thơ trong tập Suối Reo có thể sống lâu dài với thời gian . Tuy vậy , khi anh viết thơ Thiền chỉ bằng khái niệm nhà Phật thiếu cái chiêm nghiệm máu thịt của bản thể , thì hồn thơ của anh không còn cái diễm tuyệt mênh mang quyến rũ như là phẩm chất thẩm mỹ vốn có trong thơ anh .Ta hiểu làm thơ tư tưởng khó biết bao , và thật đáng trân trọng những bài thơ đã hóa thân từ chính tâm thức Trần Ngọc Tuấn.
Phác thảo chân dung
Tôi vừa vẽ những nét phác thảo chân dung 10 nhà thơ trẻ đương đại, bạn đọc có thể hình dung được một thế thệ thơ không ? Tất nhiên với chỉ 10 khuôn mặt thơ thì chưa đủ cho một khái quát ở diện rộng, vì người làm thơ trẻ có đến hàng ngàn. Dù vậy, 10 khuôn mặt thơ tôi vừa giới thiệu ít nhiều đã hé lộ những điều mới mẻ mà thơ của thế hệ đi trước chưa hề có. Thơ trẻ không dễ đọc, bởi đó là thơ thiên về thể hiện tư tưởng. Thơ trẻ không còn là thơ Lãng Mạn , cũng không là thơ kể người, kể việc.Thơ trẻ tiếp cận với thủ pháp và tinh thần Hậu Hiện Đại, pha trộn với Nghệ Thuật Sắp Đặt, Nghệ Thuật Trình Diễn..Họ dùng nhiều ẩn dụ, nhiều liên tưởng, nhiều hoang tưởng , ngẫu nhiên. Có những so sánh ẩn dụ đi quá xa, làm cho người đọc mệt nhoài chạy theo thơ. Các nhà thơ trẻ đã có ý thức sáng tạo , có những quan điểm mới và có cách thể hiện mới. Họ giàu có về ngôn ngữ, có bề rộng trải nghiệm , sức sáng tạo thật đáng nể . Trong những nhà thơ trên, tôi thấy có những khuôn mặt thật đặc sắc ( Lê Vĩnh Tài, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Thuý Hằng , Trần Ngọc Tuấn ) . Trong sâu thẳm của hồn thơ, nhà thơ trẻ tha thiết với tình yêu, tình người, tình đời, với cuộc sống nhân sinh. Họ khao khát cái đẹp và tin tưởng cái đẹp sẽ bừng sáng trong đêm đen thẳm và đặc quánh. Tôi nghĩ họ sẽ làm nên một diện mạo thi ca mới cho thơ Việt nam đương đại. Con đường của họ còn đang mở ra trước mặt. Đọc thơ họ, nếu đọc từng bài riêng lẻ, thì thật khó tiếp cận, bởi đó chỉ là những mảnh vỡ nhận thức –tư tưởng -thẩm mỹ của họ. Cần đặt thơ họ trong hệ thống thi pháp và kiểu tư duy nghệ thuật , và nhìn bài thơ theo ý thức sáng tạo của từng tác giả, người đọc mới mong đi vào thế giới tâm hồn của họ. Nếu hiểu được họ thì thật thú vị, bởi họ chủ trương một lối viết không dễ hiểu, một cách thể hiện dành cho đối tượng người đọc có chọn lọc.
10/2008
(1) Nguyễn Hữu Hồng Minh, Bản chất ngôn ngữ và tính hư cấu trong thơ hiện đại
(2) NguyễnHuyThiệp , Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, Tạp chí Ngày Nay, Hà Nội, số 6, 15.3.2004 )
(3) Lý Đợi phỏng vấn Như Huy :(2003) Nicolas De Olivera, Nicola Oxley và Michael Petry, Nghệ thuật sắp đặt ở thời điểm thiên niên kỷ mới (Installation Art in the New Millenium – Thamed and Hudson xuất bản),
(4) Theo định nghĩa về P.A của Quỹ Phát triển và Trao đổi văn hóa Đan Mạch - Việt Nam
(5) Trả lời phỏng vấn của Vnexpress
(6) Đặng Thiều Quang thực hiện Văn Nghệ Trẻ số Tết - Xuân Mậu Tý 2008
(7) Thực ra, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ là gì? - Rogers, Bruce Holland , Bản dịch của Nguyễn Hoàng Văn,Hoàng Ngọc-Tuấn hiệu đính ).
(8) Một phần đã đăng trên Văn Nghệ Trẻ : Một Mình Ra Khơi , ngày 28/01/2007