Quê tôi ở tít tận miền Trung xứ Quảng.Ấy là vùng cao Đại Lộc ,Quảng Nam, nơi có dòng sông Vu Gia nghiêng mình soi núi Cấm.
Tôi xa quê khi tuổi còn thơ ấu.Năm 1959 cùng với đoàn người di dân, Cha, Mẹ tôi gánh gồng vào Bình Tuy lập nghiệp.48 năm xa quê , mãi đến giờ tôi mới có dịp trở về nơi chôn nhau, cắt rốn.
Vẫn dòng sông thơ ấu,vẫn bờ tre kẻo kịt giữa trưa hè, vẫn ngọn khói lam chiều quyện thơm rơm rạ. Về với quê , tôi mang theo bao hoài mong của Mẹ.Mẹ bây giờ tuổi đã 90, tóc bạc cùn vì tháng năm cơ cực,bước chân đi run rẩy,khó nhọc vô cùng.Không về được quê,nhưng trong Mẹ hình ảnh quê hương luôn hiển hiện.Mẹ vẫn thường kể tôi nghe về dòng sông Vu Gia , về cái bến trầu ở Lam Đông ,Đại Lộc.
Hồi ấy, đã rất lâu rồi , bến sông Vu Gia ở Lam Đông là nơi sầm uất, ghe thuyền bán buôn tấp nập.Cuộc sống của Cha, Mẹ tôi gắn với chiếc ghe bầu chở trầu, chở bòn bon xuôi ngược trên dòng Vu Gia.Cha tôi vốn không xuất thân từ thương lái,ông là con út,lại là con một của gia đình,được ông bà Nội cho ăn học tử tế, biết làm thơ, biết chữ Nho, tiếng Pháp,đã từng được dân bầu làm Lý trưởng,nhưng rồi cái máu lãng tử không giữ được chân ông.Bỏ việc làng ,ông lang thang từ Nam ra Bắc, có lúc qua tận bên Lào, để rồi trở về cùng chiếc ghe bầu ngược xuôi trên dòng sông Vu Gia.Cái nghề sông nước khổ nhưng vui,sáng chống ghe ngược nguồn lên Giằng,chiều cho ghe cập bến, rồi xúm nhau rượu chè , hát xướng , chuyện buôn bán gác lại ngày mai,bỡi mọi thứ đã có mối lái sẵn.Trầu, bòn bon bà con dân tộc sẽ gùi đến để đổi muối, gạo...Chỉ vậy 2,3 ngày một chuyến ,Cha chống ghe,Mẹ ngối bến đợi trầu về chạy chợ Hà Nha.Làm ăn thuận lợi vậy, nhưng đôi khi Mẹ cũng rất buồn,suốt đêm ngồi ở bến sông đợi Cha về,khi ghe cập bến,trên ghe trống trơn chẳng có lá trầu, trái bòn bon nào,hỏi ra mới biết Cha đã đổ vào sòng xóc dĩa.Mẹ buồn, Mẹ khóc,Mẹ quảy gánh không về nhà.Cha thì cứ cười xề bảo chuyến sau gở lại.Biết tính Cha là vậy,Mẹ có làm giận được lâu đâu,rồi lại ra bến sông xếp trầu chạy chợ.
Lại nói về trầu và trái bòn bon.Đây là hai sản phẩm đặc trưng của quê tôi ngày ấy.Mẹ kể ở trên Nguồn trầu và bòn bon nhiều lắm.Trầu sau khi hái người ta xếp thành liểng rồi chở ghe đi bán.Lá trầu Nguồn to,dày, xanh mượt ,mùi vị rất nồng nàn.Ghe chở về bao nhiêu bán cũng hết,số thì bán lẻ ở chợ Hà Nha,số thì bỏ sỉ cho các thương lái chở ra Hội An,Đà Nẳng.Còn bòn bon ,loại trái hiếm này cũng chỉ có ở trên Nguồn và một số ít vùng lân cận.Trên múi bòn bon có dấu tay ấn.Tương truyền khi vua Gia Long lên vùng đất này gặp được loài trái cây lạ,mọng nước ,ăn rất ngon ,rất mát, vua dùng móng tay ấn thử,từ đó múi bòn bon có dấu tay ấn của vua.Biết đây là loài trái quý vua đặt tên là trái Nam Trân.Ở Đại Lộc hồi ấy có Ông Tú Quỳ nổi tiếng văn hay chữ tốt,đối đáp rất giỏi , một hôm ông gặp người thiếu phụ ngồi bên thi hài chồng than khóc,lại thấy trên đầu giường có để chiếc quạt Tàu,biết đấy là kỷ vật của người qúa cố ,ông ra ngay câu đối :
Sàn đầu lưu Bắc phiến
Giang thượng lạc Nam Trân.
Bòn bon Đại Lộc nỗi tiếng khắp vùng là vậy.
Ở dòng sông này,ở bến sông này ,Tổ tiên ,Ông bà,Cha mẹ tôi đều gắn liền cuộc đời với những buồn vui , sướng khổ.Tuổi thơ tôi cũng đã chập chững theo Mẹ, Cha ra bến sông vào những đêm trăng lồng lộng.Tôi đã uống nước Vu Gia, tắm mát với Vu Gia,đêm đêm nằn nghe Vu Gia rì rầm tiếng nước.
Cha xa quê được 10 năm rồi mất,Cha mất mà trong lòng còn canh cánh một dòng sông.Mẹ bỏ bến trầu theo Cha rồi thành hóa bụa,một mình quảy gánh sớm khuya nuôi bầy con 5 đứa.Thấm thoát 48 năm,bây giờ sức mẹ đã kiệt ,ước nguyện về quê cũng không thành.Đôi lúc trong cơn mê sảng Mẹ cứ đòi ra bến sông xếp trầu để kịp phiên chợ sớm Hà Nha.
Về lại với quê , tôi ra bến sông ngồi tưởng tượng một thời của Cha, của Mẹ.Dòng sông vẫn rầm rì tiếng nước,những chuyến ghe còn đó xuôi ngược sớm chiều.Bên kia sông dãy núi Cấm Mùn trầm tư soi bóng.Có điều những chiếc ghe chở trầu, chờ bòn bon đã vắng tự lâu rồi.