Số người biết chữ Nôm hiện nay còn ít hơn cả biết chữ Hán. Làm thế nào để cứu di sản chữ Nôm, đó chính là mục đích chính của cuộc Hội thảo quốc tế về chữ Nôm khai mạc sáng mai, 12/11. Trước thềm hội thảo, chúng tôi có cuộc trao đổi với GS.TS Nguyễn Quang Hồng (Viện nghiên cứu Hán Nôm), người đã 10 năm nay nghiên cứu một phương cách để vi tính hoá thứ chữ rất khó nhớ, khó học này.
- Theo đánh giá của GS, hiện trạng bảo tồn di sản chữ Nôm hiện nay có đáng báo động không?
- Chữ Hán, Nôm viết trên giấy bản, viết tay hoặc khắc in trên bia, bi ký, chuông... rải rác trong dân gian, ở các tư gia và chủ yếu là các di tích. Thời Pháp thuộc, các địa phương được lệnh đi in, rập, sao chép các bản chữ cả Hán lẫn Nôm rồi nộp cho Viện Viễn đông Bác cổ. Do đó mà Viện này mới tập hợp được một số lượng khá lớn tư liệu Hán Nôm, về sau một phần chuyển giao cho Thư viện KHXH, một phần lớn chuyển sang Viện nghiên cứu Hán Nôm. Từ đó đến nay Viện Hán Nôm hằng năm đều cử các cán bộ về các địa phương sưu tầm và rập, in làm tư liệu lưu trữ.
- Số người biết chữ Nôm hiện nay không nhiều, vậy làm thế nào đảm bảo là chúng ta không để sót những tư liệu quý?
- 10-15 năm trước thì có tình trạng coi thường di sản, hoặc cố ý làm hỏng di sản do không hiểu biết. Nhưng mấy năm gần đây tình trạng này đã giảm đi. Vả lại, cán bộ của chúng tôi không phải là ít, ngoài những người trong biên chế, còn có các nhà nghiên cứu, bảo tồn thuộc các di tích, nhà chùa, hoặc những người nghiệp dư say mê chữ Nôm...
Cái khó của di sản chữ Nôm khi lưu lạc ở trong dân gian là người không hiểu thoạt nhìn rất khó phân biệt nó với chữ Hán. Điều khác nhau cơ bản là chữ Nôm dùng để ghi âm tiếng Việt còn chữ Hán thì không. Chữ Nôm dùng để người Việt nói cái gì thuần với cách nói, với tâm tư tình cảm của người Việt Nam. Chữ Nôm có lịch sử gần 1000 năm nay. Thế kỷ 11, nó mới chỉ có dấu hiệu ra đời, thì đến thế kỷ 13, 14 đã đóng vai trò thực sự là một văn tự.
- Để tìm lại một vị trí nào đó của chữ Nôm trong đời sống văn hoá hiện đại, theo ông cần làm gì?
- Trước hết, về quan điểm, chúng ta không được phép coi chữ Nôm chỉ đơn thuần là di sản cần khai thác để biết cha ông ta gửi gắm cho thế hệ sau những gì, mà cần phải phổ biến cho người dân càng nhiều càng tốt, nhất là thanh thiếu niên. Bảo tồn không phải trong các kho lưu trữ, mà là phải đưa nó đến người sử dụng.
Người Nhật, người Trung Quốc tại sao không bỏ chữ tượng hình chuyển sang chữ La tinh?! Đâu phải vì họ không đủ trí tuệ để làm việc đó. Mà một lý do chính là bởi họ thấy chữ biểu ý thích hợp cho việc phân biệt nghĩa bằng mắt. Ở Việt Nam, tôi không định nói rằng nên chuyển sang dùng chữ Nôm. Nhưng tại sao chúng ta lại không sử dụng chữ Nôm song song với chữ quốc ngữ! Hoặc trong nhiều di tích hay thắng cảnh có các hạng mục xây mới hoặc tu sửa, thì ngoài chữ Hán sử dụng đề các bia, đối, tại sao không sử dụng chữ Nôm thay vì sử dụng chữ Quốc ngữ như một số nơi hiện nay? Tóm lại, để giới trẻ không thờ ơ với chữ Nôm, cần phải chứng tỏ vai trò quan trọng của chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực.
- Vào thời điểm chữ Nôm mất vị trí trong đời sống văn hoá xã hội VN, nó đã không chứng tỏ được ưu thế của nó so với chữ quốc ngữ, là thứ chữ Latinh rất dễ đọc dễ viết. Vậy bảo tồn, phát huy chữ Nôm bằng cách đưa nó đến gần người sử dụng hầu như là một cách khó khả thi...
- Đưa chữ Nôm đến được người sử dụng, nhất là giới trẻ đúng là vấn đề khó. Phải làm sao để họ thấy nó gần gũi. Vậy thì không thể đưa cho họ di sản nằm trên giấy dó, mà phải có một con đường khác, hiện đại hơn. Chúng tôi đã tìm ra đó chính là con đường qua máy tính, con đường sử dụng công nghệ thông tin. Cần thu gom các chữ Nôm có từ trước đến nay rồi mã hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là mối quan tâm chung của các dân tộc sử dụng chữ ô vuông. Người Trung Quốc đã nghĩ ra cách tin học hoá chữ viết của họ, để có thể dùng đánh lên máy vi tính. Ở ta, một nhà nghiên cứu trẻ là Phan Anh Dũng ở Huế đã nghĩ ra cách mã hoá chữ Nôm. Nhưng sử dụng những hình thức này đều mới chỉ cho trong nước, còn ra quốc tế thì họ không sử dụng được. Góp vào kho chữ biểu ý ấy, hiện chúng ta đã có được 10.000 chữ Nôm (trong tổng số khoảng 1,5 vạn chữ).