Vốn văn hóa đó bắt nguồn từ truyền thuyết về Sơn Tinh - người Anh hùng trị thủy, người khai sáng văn hóa, người được tôn vinh là vị thần của núi Tản - đứng đầu "tứ bất tử" trong tâm thức của người Việt...
Theo Bí thư Đảng ủy xã Ba Vì, Lý Văn Thọ thì người Dao thờ Đức Thánh Tản với lòng ngưỡng mộ đặc biệt và những nghi lễ đặc biệt. Ước vọng cùng lúc vừa được hưởng lộc đức Thánh phù hộ vừa ghi nhớ công đức tiên tổ, mỗi gia đình, dòng họ của người Dao Ba Vì đều lập bàn thờ Thánh Tản chung với bàn thờ Tổ. Không chỉ vậy, mỗi bản Dao còn có một miếu thờ Thánh Tản do một ông thầy cúng (ông mo) trông coi.
Hằng năm, người Dao tổ chức tế lễ đức Thánh Tản bốn lần vào bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Ngày đó, tất cả các gia đình trong bản đều góp gạo, rượu, gà làm lễ chung dâng lên bàn thờ Thánh, thỉnh cầu một năm bình yên, mùa màng tươi tốt, bội thu. Hạ lễ, cả làng ăn "bữa tiệc cộng đồng" và múa hát chung vui. Khắp vùng núi Tản dậy lên không khí rộn ràng của tiếng chuông, tiếng thanh la, chũm chọe quyện trong điệu múa, điệu nhảy. Những khúc dân ca "ôn nghèo kể khổ" hoặc tỏ tình đôi lứa, cũng từ đó được cất lên. Người Dao hát như dốc cả tấm lòng, như gọi về một thời khổ cực, sống du canh du cư giống"con chim lạc ngàn, đổ gốc ăn ngọn" lang thang các triền núi; lá trên mái lều chưa héo đã lại rời đi: "Người Dao ta không có đất/Lam lũ chạy theo núi rừng/Đói nghèo bám chặt vào lưng...". Hát để trao gửi tình cảm, bộc bạch lời yêu thương: "Anh khổ không ai giúp/Em có lòng giúp đỡ anh không?/Bao giờ mặt trời mới chiếu đến bản của anh?" . Và khát khao một cuộc sống đủ đầy: "Anh lo thì em cùng lo/Anh lo sao có cơm no, đất cày/Em lo nương rẫy luôn tay/Mong sao xuân tới được ngày hát vui"...
Trưởng ban văn hóa xã Ba Vì, Triệu Tiến Nhàn kể rằng: Người Dao của anh coi "bữa tiệc cộng đồng" không chỉ là cuộc tập dượt nghi thức tế lễ mà còn là trường dạy múa, dạy hát cho các thế hệ người Dao. Tết nhảy (Nhìàng chậm đao) là Tết đặc biệt của người Dao, do một gia đình người Dao đăng cai và được cả bản tham dự. Tết nhảy diễn ra dưới hình thức như lễ hội (có phần lễ và phần hội). Phần hội có hát múa linh đình, cả bản thay nhau hát múa. Trước đây lo được một Tết nhảy rất tốn kém, phải tổ chức liền trong ba năm: Năm đầu tổ chức 1 ngày, 1 đêm; năm thứ hai 2 ngày, 2 đêm; năm thứ ba 3 ngày, 3 đêm. Nhiều gia đình nghèo, tổ chức xong Tết là đeo nợ từ đời cha sang đời con, thậm chí sang đời cháu chưa trả hết, chịu cảnh nghèo đói quanh năm. Nay, thực hiện nếp sống văn hóa, Tết nhảy đơn giản hơn nhiều; gia đình nào đến lượt mà có đủ điều kiện thì mới đăng cai và chỉ gọn 3 ngày, 3 đêm một lần Tết; cũng không phải chờ khi có Tết mới được xem múa rùa, múa kiếm, múa chuông mà những điệu múa này đã được cải biên minh họa cho hát dân ca, diễn trong mùa lễ hội và diễn tại các liên hoan văn nghệ quần chúng từ huyện đến toàn quốc, mang về nhiều phần thưởng quý báu; trên hết, nó trở thành một sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người Dao Ba Vì.
Nhưng để tổ chức Tết nhảy phụ thuộc vào những điều kiện có tính bắt buộc liên quan đến thờ tự và việc lập bàn thờ, tốn kém và lễ nghi. Cách thờ tự của người Dao rất độc đáo, bàn thờ không đặt giữa nhà mà đặt ở góc nhà (được coi là nơi linh thiêng); không chỉ có một bàn thờ mà là hai. Bàn thờ nhỏ, nhà nào cũng có; nhưng để dựng bàn thờ lớn phải dư dật của cải. Trước đây, dựng bàn thờ lớn phải mổ 3 con lợn, 5 con gà, thầy mo đến cúng một ngày một đêm, cúng xong mời cả bản uống rượu, ca hát, nhảy múa; phải có đủ hai bộ tranh thần (bộ tranh thần nhỏ được sắm từ năm trước; bộ tranh thần lớn sắm vào năm sau). Mỗi lần sắm tranh là một lần gia đình đó phải mổ 3 con lợn, 6 con gà, mời 3 ông thầy cúng chay hai ngày hai đêm. Sau đó phải thêm lễ tạ mả nữa thì mới có bàn thờ lớn và chỉ khi có bàn thờ lớn rồi mới thành nhà Tổ. Khi đó gia chủ mới được làm Tết nhảy. Để lo Tết nhảy, nhiều gia đình phải mất hàng chục năm mới mua đủ hai bộ tranh thờ; tổ chức xong Tết thường khánh kiệt... Tết nhảy kéo dài ba ngày ba đêm cùng nghi lễ cúng bái; nội dung bài cúng thường cầu tổ tiên phù hộ bình yên, khỏe mạnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt; nội dung những điệu múa hát thể hiện khát vọng cuộc sống hạnh phúc no ấm. Gia đình người Dao nào cũng đến lượt đăng cai làm Tết nhảy; vì vậy mà năm nào cũng có "bữa tiệc cộng đồng", làm nên sắc thái văn hóa của riêng người Dao Ba Vì...
Năm 1964, cuộc cách mạng hạ sơn đã đem lại sự thay đổi lớn lao đối với cuộc sống của người Dao. Từ trồng rừng, chăn nuôi, trồng cây thuốc nam... thu nhập của người Dao ổn định từng bước. Nhiều hộ đi đầu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư chăn nuôi, trồng rừng, buôn bán thuốc nam... Đặc biệt, thực hiện nếp sống văn hóa mới, phong tục riêng, bản sắc riêng tuy vẫn giữ nhưng nhiều nghi lễ, hủ tục lạc hậu đã được cởi bỏ, đem đến cho người Dao sự thanh thản về tinh thần. Vì vậy, họ đến với cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa mới cũng nhanh hơn. Từ năm 1998, làng Dao Yên Sơn đã được UBND tỉnh công nhận là Làng văn hóa; hai làng Hợp Nhất và Hợp Sơn cũng đã xây dựng quy ước làng và đang phấn đấu để đạt danh hiệu văn hóa. Đặc biệt, các hoạt động văn hóa thể thao được xã coi trọng đã giúp con em bản Dao tránh xa tệ nạn xã hội.
Hơn 400 hộ với trên 2000 người Dao Ba Vì đã và đang đoàn kết phấn đấu để có đời sống kinh tế và tinh thần phong phú hơn. Lòng dân hợp ý Đảng - Nghị quyết của Đảng bộ huyện Ba Vì đưa ra mục tiêu phát triển kinh tế vùng phía tây xã Ba Vì thành vùng du lịch sinh thái, du lịch văn hóa rồi sẽ đem lại nhiều cơ hội cho người Dao phát triển kinh tế đi đôi với phát huy nét văn hóa truyền thống, giàu bản sắc của mình.../.