Vàng Anh của thơ
Hôm nay trời nắng chang chang.
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì.
Chỉ mang một chiếc bút chì.
Và mang một mẩu bánh mì con con.
Sự nghiệp thơ của Phan Thị Vàng Anh dừng lại ở đấy, hoặc có viết cũng không đưa ra phổ biến nữa.
Vàng Anh của truyện
Nổi nhất của Phan Thị Vàng Anh phải nói là truyện ngắn. Vỏn vẹn chỉ trong hai tập truyện Khi người ta trẻ và Hội chợ, nhưng Vàng Anh đã tạo nên một phong cách truyện ngắn rất đặc trưng: ngắn gọn, súc tích mà sắc sảo, thâm thuý và không lẫn vào đâu được. Nhà văn Nguyễn Khải từng khen Vàng Anh một câu rất ngắn mà nức tiếng: Nguyễn Huy Thiệp mặc váy.
Vàng Anh của tạp bút
Sau gần 3 năm liên tục xuất hiện trên mục Tôi xem nghe đọc thấy - báo TT&VH, Vàng Anh tập hợp lại thành một tập sách nhỏ Nhân trường hợp chị thỏ bông. Bạn đọc như vừa gặp lại một Vàng Anh quen thuộc của truyện ngắn, lại vừa ngạc nhiên phát hiện ra một Vàng Anh khác, nhiều màu hơn.
Trong 34 tản văn in trong tập này, có những cái thể hiện một Vàng Anh đầy tinh thần công dân, xây dựng, thẳng thắn và dân chủ. Duyên dáng nhất, hóm hỉnh nhất, đàn bà nhất phải nhắc tới cái Nhân trường hợp chị thỏ bông, lấy làm tiêu đề cho cả tập.
Vàng Anh của phim
Vàng Anh đang dừng lại với tản văn, với một tập sách và cái bút danh Thảo Hảo để đời. Lần này chị nhảy sang một lãnh địa khác, không phải thế mạnh của mình là phim tài liệu. Sau ba tháng theo lớp học làm phim tài liệu Varan (làm phim trực tiếp), thành quả của chị là bộ phim tài liệu dài 33 phút có cái tên rất ngộ nghĩnh Trong phường Thành Công, có làng Thành Công.
Phim làm xong từ năm ngoái, nhưng mãi tới tháng 11 vừa rồi mới được đem ra chiếu tại L'Espace ở Hà Nội trong chương trình phim tài liệu Sống ở thành phố. Không khí tại hội trường hôm đó, khoảng 2/3 khán giả ta, 1/3 khán giả Tây lâu lâu lại rộ lên cười từng hồi khi chứng kiến cảnh sinh hoạt vui vẻ, hài hước và khá náo nhiệt của những người dân lao động bình thường trong một khu phố nhỏ của Hà Nội.
Ý thức rất rõ mình là một người mới đến nên Vàng Anh không tham vọng làm phim luận đề to tát về thế hệ này thế hệ nọ, chỉ đơn giản xoáy ống kính (bằng máy quay phim kỹ thuật số) vào một chủ đề rất thú vị trong đời sống thường nhật của người dân đô thị nhưng ít ai để ý - cái loa phường.
Bộ phim kể chuyện về cảnh sinh hoạt náo nhiệt của một ngôi làng cổ trong phường Thành Công, nơi người ta phải sửa chữa lại đường dây và lắp đặt loa phát thanh mới. Máy quay (bộ phim này do chính Vàng Anh tự quay và đạo diễn) bắt đầu mô tả cảnh sinh hoạt thường ngày của bà con lao động trong khu phố, những gánh hàng rong của các bà các chị, chiếc xe chở than tổ ong của một anh nông dân, một con cua nhỏ thoát ra từ rổ cua của chị bán hàng rong bò lổm ngổm trên phố... rồi đi vào nội dung chính: lắp đặt loa phường làm sao để truyền thông tin đến bà con nhanh và hiệu quả nhất. Thế là nảy sinh đủ chuyện, nào là đường làng quá hẹp khó bắt dây vào, phát thông tin vào giờ nào hiệu quả nhất, bố trí loa như thế nào cho hợp lý để bà con khỏi kêu là chĩa thẳng vào nhà, đinh tai nhức óc đến nỗi nhiều người dân phải lén leo lên phá loa hoặc xoay loa hướng lên trời.
Đoạn kết phim đọng lại nhiều dư âm. Sau một ngày sinh hoạt náo nhiệt, bà con làng Thành Công thu dọn trở về nhà trả lại cho phố phường sự yên tĩnh, ánh sáng của đèn điện hắt lên tường những con ngõ sâu hun hút, chiếc loa phường nằm lặng lẽ cô độc trên cao...
Và sẽ là...?
Có thể sẽ chẳng bao giờ Vàng Anh theo nghề phim tài liệu như chị nói, nhưng chị đã học được rất nhiều cái nhìn từ đây. Ấy là cách nhìn cuộc sống không công thức, sáo mòn, giáo điều, không áp đặt. Và khi truyền đi một thông điệp, là không phải để mất đi các mối quan hệ mà là để có thêm các mối quan hệ, là không phải nhìn về người khác mà là sống với người khác, là tính hài hước và nhân bản khi nhìn cuộc sống.