Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.851 tác phẩm
2.760 tác giả
374
123.030.819

vanchuongviet.org

Tư liệu văn hóa nghệ thuật

TIN TỨC
An Lăng thờ ba vị vua triều Nguyễn kêu cứu
Là một trong những hệ thống lăng tẩm có giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử, An Lăng thờ ba vị vua xấu số nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân, đang bị xuống cấp nghiêm trọng.

Là một trong những hệ thống lăng tẩm có giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử, An Lăng thờ ba vị vua xấu số nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân, đang bị xuống cấp nghiêm trọng.

Nơi tưởng nhớ ba vị vua xấu số

 

Lên ngôi trong một bối cảnh chính trị xã hội rối rắm, ông hoàng trẻ Ưng Chân, cái tên Dục Đức sau này được gọi tên dựa theo tư thất của mình là Dục Đức Đường, chỉ ở ngôi được ba ngày đã bị truất phế vì tội dám lược bỏ một đoạn văn trong di chiếu truyền ngôi của tiên đế. Ông bị tống ngục và mất ngày 24/10/1884. Thi hài ông được gói vào một chiếc chiếu giao cho hai tên lính và một viên quyền suất đội gánh đi chôn.


“Đám tang” của ông vua xấu số này được đưa về An Cựu để mai táng trong địa phận chùa Tường Quang (chùa do một người thân bên vợ của vua Dục Đức lập ra năm 1871). Gần đến nơi thì thi hài nhà vua bị rớt giữa đường do đứt dây, một người lính đã chạy vào chùa mời nhà sư trụ trì ra giải quyết. Cuối cùng, mọi người nhất trí chọn mảnh đất “thiên táng” đó làm nơi yên nghỉ đời đời của vua nên mai táng qua loa cho xong chuyện.

 

Sáu năm sau, do một hoàn cảnh bất ngờ, con trai của Dục Đức là Bửu Lân lại được đưa lên làm vua. Sau khi tức vị, Bửu Lân đặt niên hiệu là Thành Thái (1889-1907) và bắt đầu cho xây đắp lăng mộ của vua cha ngay trên nấm mồ “Thiên táng” đó. Lăng được xây dựng vào đầu năm 1890, đặt tên là An Lăng nhưng chưa có điện thờ. Mọi lễ nghi thờ cúng vua Dục Đức đều được tổ chức ở chùa Tường Quang, cách đó 200m. Năm 1892, chùa được vua Thành Thái đổi tên là Kim Quang và được ban tấm hoành phi đề 5 chữ Sắc tứ Kim Quang tự, được coi là của báu của vương triều Thành Thái và cả vương triều Duy Tân sau này.

 

Sau khi bà Từ Minh, vợ chính của vua Dục Đức tạ thế, triều đình mai táng thi hài của bà bên phải mộ vua Dục Đức theo thế “Càn, Khôn hiệp đức” như ở lăng Gia Long.

 

Làm vua được 18 năm (1889-1907), Thành Thái có những tư tưởng và hoạt động chống Pháp nên bị truất ngôi. Con trai vua Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San được đưa lên ngai vàng, đặt niên hiệu Duy Tân, trị vì được 8 năm (1907-1916) thì bị Pháp bắt vì tội “tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Thái Phiên và Trần Cao Vân”. Chính phủ bảo hộ và Nam triều đã đày hai ông vua yêu nước Thành Thái, Duy Tân sang đảo Réunion với án lưu đày biệt xứ. Năm 1953, vua Thành Thái được trở về nước, sống ở Sài Gòn. Ông mất vào năm 1954 và được hoàng tộc rước thi hài về chôn trong khuôn viên của lăng Dục Đức.


Sau khi vua Duy Tân chết bởi một tai nạn máy bay rất khó hiểu ở Trung Phi (1945), thi hài của ông được chôn cất ở đó. Năm 1987, hài cốt nhà vua được cải táng từ Trung Phi đưa về chôn cạnh mộ vua Thành Thái. 

 

Dấu xưa phai mờ

 

An Lăng có hình chữ nhật, có diện tích 3.445m2, bên trong không có Bi Đình và tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Chính giữa Bửu Thành có một nhà Huỳnh Ốc dạng phương đình, thay thế cho nhà bia. Bên trong nhà Huỳnh Ốc không có bi ký, thay vào đó là một sập đá và kỷ đá dùng để bày hương án và hào soạn mỗi khi cúng giỗ nhà vua. Hai bên tả, hữu là mộ vua Dục Đức và Hoàng hậu Từ Minh. Đáng chú ý là tấm bình phong trước mộ vua có chữ “song hỷ” đắp bằng sành sứ.

Điện Long Ân ở trung tâm khu vực tẩm là một công trình được xây cất theo khuôn mẫu của các ngôi điện có ở Huế. Bên trong hiện có 3 án thờ thờ bài vị của các vua: Dục Đức và vợ (ở giữa), Thành Thái (bên trái) và Duy Tân (bên phải).

 

Phía sau điện Long Ân ngày xưa là chốn hậu cung của các bà vợ vua, giờ đây được mở rộng và chỉnh trang thêm. Đó cũng là nơi yên nghỉ của hai ông vua Thành Thái và Duy Tân- những người dám đổi ngai vàng để giành độc lập, chủ quyền cho dân tộc để rồi chọn cái chết và chôn trong những nấm mồ đơn sơ, giản dị. Trong khu vực này còn có mộ của các bà vợ vua Thành Thái: mộ bà Hoàng Quý Phi Nguyễn Gia Thị Anh, bà Nguyễn Thị Định (mẹ vua Duy Tân) và bà Khoan Phi Hồ Thị Phương; mộ công chúa Lương Linh (em vua Duy Tân), mộ bà Mai Thị Vàng (cải táng) vợ vua Duy Tân và một số lăng mộ của các hoàng thân anh em với vua Duy Tân. Khu vực An Lăng còn có 39 lăng mộ các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ (Nguyễn Phúc Tộc).

 

So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, An Lăng có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn hơn. Tuy nhiên, nó phán ánh phần nào đó hiện thực lịch sử thật đa dạng và lắm biến cố. Chình vì thế, công trình  đã được công nhận là di tích quốc gia, tuy nhiên do thời gian và sự thiếu ý thức của người dân, khu di tích này được bị xuống cấp nghiêm trọng.

 

Cả khu tẩm mộ rộng gần 1 ha rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát, hiện đang khóa cửa và bị bỏ hoang. Bên trong bức tường thành đang mục nát, một số di tích nhỏ gần như đã bị xóa sổ, chỉ còn lô nhô vài dấu vết cũ để chứng tỏ rằng nó đã từng tồn tại. Nhiều công trình siêu vẹo có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Ngay tại khu vực chính điện Long Ân, nhiều mảnh tường bị rạn nứt, cỏ dại mọc um tùm, thậm chí nhiều nơi biến thành “vườn ươm” để ươm mầm cây cối. Rồi tình trạng người dân phá tường, “sống bám” vào di tích ngày càng phổ biến...


Những người tâm huyết với di sản Việt Nam e ngại, nếu không có sự can thiệp của chính quyền địa phương và các cấp ngành có liên quan, dấu xưa về ba ông hoàng của triều Nguyễn sẽ hoàn toàn “mất dấu”.

 

Ảnh: An Lăng được xây dựng đơn sơ giản dị hơn so với lăng tẩm của các vị hoàng đế khác.

 

Bảo Bình - ĐVO