Chuyện như sau: năm 1966, tức mười năm sau vụ đóng cửa báo Nhân Văn, Trần Dần xin được sở Công an Hà Nội cấp giấy phép để ra vào tiếp cận, lấy tư liệu từ những nguỵ binh cũ thời Pháp thuộc làm chất liệu cho cuốn tiểu thuyết. Khi tiểu thuyết hoàn thành, Trần Dần đã phải nộp bản thảo chép tay duy nhất lên sở Công an Hà Nội (thời đó không có phương tiện sao chụp, in ấn hay máy tính như hiện nay để nhà văn có thể sao lưu bản thảo). Vậy là bản thảo tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn cùng tập thơ Cổng tỉnh của Trần Dần đã nằm trong hốc tối ngăn kéo của cơ quan an ninh suốt 22 năm. Cho đến khi giá trị sáng tạo của phong trào Nhân văn giai phẩm được dần dần soi rọi, thì Những ngã tư và những cột đèn được trả về cho tác giả (1988). Thế nhưng lại có một nghịch lý oan uổng khác đến với số phận bản thảo kỳ lạ này: bản thảo đã phải tiếp tục nằm trong ngăn kéo của tác giả thêm 20 năm trời, vì các nhà xuất bản trong nước đều từ chối in. Phải đợi đến năm năm sau khi tác giả Trần Dần được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật thì Những ngã tư và những cột đèn mới chính thức ra mắt công chúng. Còn nhớ, mùa xuân 2011, khi cuốn sách ra mắt, nhiều tờ báo chính thống trong nước đã nhắc đến nó một cách dè dặt, vì cho là “còn nhạy cảm”.
Cũng thuộc nhóm Nhân văn giai phẩm, Phùng Cung là cái tên ít được nhắc đến. Song, khi xem lại những dữ liệu về nghi án văn chương này, có thể thấy Phùng Cung tuy ít xuất hiện, nhưng ngay từ đầu đã cho thấy một tài năng văn chương lớn. Truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh của ông in trên tờ Nhân Văn là một thành công về biểu tượng phúng dụ, một thông điệp văn nghệ sắc sảo và đầy thâm thuý thời bấy giờ. Số phận con thiên lý mã hoành tung chiến trận một hôm chấp nhận vào phủ chúa Trịnh chịu mang hàm thiếc bạc nạm vàng, bị che mắt chỉ được nhìn thẳng, chạy thẳng một hướng về phía trước là một thông điệp mạnh mẽ mà sức lan toả còn mãi đến hôm nay. Có lẽ vì thế mà sau khi báo Nhân Văn đóng cửa (1956), Phùng Cung bị giam giữ tại các trại Hoả Lò, Bất Bạt, Yên Bái, Phong Quang…
Trong sự nghiệp của mình, Phùng Cung chỉ viết chừng tám truyện ngắn, còn lại là hơn 250 bài thơ rất ngắn với ngôn từ độc đáo hàm súc, thi ảnh đẹp trong một nhịp điệu thong thả, một thế giới gần gũi tĩnh lặng nhưng đôi khi đầy bức bối.
Năm 1995, lần đầu tiên, tập thơ Xem đêm Phùng Cung ra mắt nhờ sự nhiệt tình tài trợ và uy tín của những bạn bè một thuở như Phùng Quán, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang. Những ngày cuối năm 2011, tập thơ này được Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn tái bản với phần phụ lục có “đính kèm” truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh và một số bài viết của những văn hữu gần gũi Phùng Cung trong những tháng ngày sống lặng lẽ cùng số phận ẩm ương của những trang bản thảo – những tháng ngày, văn nhân sống trong tâm trạng: “nhòm nhõm thâu đêm/ chết thèm cái bóng”.
Cái bóng của cuộc đời, quan niệm sáng tạo nhà văn đổ xuống số phận của trang viết, dường như điều này không còn mấy xa lạ trong bối cảnh văn chương của chúng ta. Trần Dần đã có nhiều chục năm ngồi trước bức tường, đến nỗi, khi ông đổ xuống, từ giã cõi đời, thì cái bóng ông vẫn còn in trên vách. Còn Phùng Cung, ông chỉ lặng lẽ kiên trì viết những bài thơ nhỏ, chẳng thiết in ấn.
Nhưng thời gian đã khai quật để trả về cho những số phận văn chương các giá trị bị coi bất phùng thời, dù cái giá của thời gian cũng thật nghiệt ngã với bản thân người sáng tạo, độc giả và lịch sử tiến hoá của văn học.