Từ một địa hình gần bờ sông Thu Bồn thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, nhà văn Chu Cẩm Phong đã xếp lại cuốn nhật ký đang ghi dở dang và cầm súng chuẩn bị chiến đấu. Cuốn nhật ký đã vĩnh viễn dừng ở dòng chữ ấy.
Ba ngày sau, Chu Cẩm Phong hy sinh khi bị địch khui hầm. Anh và đồng đội đã chống trả quyết liệt đến viên đạn cuối cùng và quyển nhật ký vẫn nằm lặng lẽ trong ba lô. Quyển nhật ký lẽ ra đã bị vĩnh viễn chôn vùi trong đất, trong im lặng, nếu không có hai sĩ quan của phía quân đội Sài Gòn. Một sĩ quan tác chiến đã lấy nó từ bên thi hài Chu Cẩm Phong, còn một sĩ quan thuộc Phòng Chiến tranh chính trị Sư đoàn 3 đã nâng niu cất giữ nó đúng trong 4 năm trời, để rồi ngày giải phóng Đà Nẵng cuốn nhật ký được người cựu sĩ quan ấy trân trọng trao tận tay một đồng đội văn nghệ của nhà văn Chu Cẩm Phong.
Có rất nhiều những cuốn nhật ký được viết trong chiến tranh bởi những người lính, những người tham chiến từ cả hai phía. Nhưng có lẽ không cuốn nhật ký nào có số phận kỳ lạ như cuốn nhật ký của Chu Cẩm Phong: những người đầu tiên được đọc cuốn nhật ký ấy lại là những người lính của "phía bên kia", và cũng chính họ là những người đã cất giữ, đã bảo vệ nó cho đến ngày hòa bình. Người sĩ quan chính trị Sư đoàn 3 quân đội Sài Gòn thậm chí còn bao bìa mới cho cuốn sổ và vẽ lên bìa hình một cái cây mọc thẳng dưới mặt trời.
Rõ ràng, cuốn nhật ký của một Việt cộng không hề quen biết đã khiến anh xúc động ghê gớm. Cũng rõ ràng, anh có thể đến với những trang ghi trong đó thoạt tiên vì tò mò nhưng sau đó đã bị chúng chiếm lĩnh, ám ảnh, thuyết phục. Bởi một điều đơn giản, cuốn sổ tay ấy là nhật ký mà cũng là một tác phẩm văn học, một tác phẩm chân thực đến tận cùng vì chỉ viết cho riêng mình, một tác phẩm của nhà văn lại được viết khi nhà văn không hề nghĩ mình đang viết tác phẩm: Chu Cẩm Phong chỉ muốn ghi lại cuộc chiến đấu mà anh trực tiếp dấn thân, ghi lại những gì anh đã thấy, đã nghĩ, đã xúc cảm mãnh liệt về nhân dân mình, về đồng đội mình, về con người và về cả những cuốn sách mà anh đã đọc, về một người con gái mà anh đã yêu, về một chốn quê nhà mà bấy lâu anh khắc khoải mong ngày trở lại... Anh chỉ muốn cuốn nhật ký này cùng lắm là tư liệu cho những cuốn sách mà anh sẽ viết, nếu may mắn anh còn sống để viết.
Nhà văn đã hy sinh, nhưng may thay, cuốn nhật ký tự nó đã là một tác phẩm văn học. Có thể coi đó là một dạng tiểu thuyết - nhật ký, hay chỉ là một cuốn nhật ký - tác phẩm, như kiểu Nhật ký Anne Frank mà cả thế giới đã đọc trong xúc động. Một tác phẩm ra đời nhiều khi rất tình cờ, nhiều khi không hoàn toàn phụ thuộc vào ý định ban đầu của tác giả, nhiều khi vượt ra ngoài sự hình dung của tác giả. Nhật ký chiến tranh là một tác phẩm kỳ lạ như vậy.
Được viết trong gần 4 năm, được cất giữ trong im lặng cũng từng ấy năm, và sau hòa bình tới hơn 20 năm mới được in ra cho mọi người cùng đọc, nhưng Nhật ký chiến tranh vẫn là một tác phẩm cập nhật cho tới ngày hôm nay, khi cuộc chiến tranh đã kết thúc tròn 30 năm. Chỉ viết cho mình, viết để răn mình, viết để nhắc nhở mình, đơn sơ vậy mà thành văn học. Nhưng bạn có biết không, cái đơn sơ ấy là máu, là hy sinh, là quên mình, những điều bây giờ tưởng như cao xa mà hồi ấy chỉ đơn giản là những dòng nhật ký.
Chiến tranh luôn là một thời gian khác thường trong những không gian ngỡ như bình thường. Chiến tranh buộc người ta bộc lộ mình rõ nhất mà cũng như dễ dàng nhất. Chu Cẩm Phong là một nhà văn, một người lính, một đồng đội, một bí thư chi bộ..., ở bất cứ cương vị nào trong số đó, anh đều là một tấm gương mẫu mực. Tôi nói thật, nếu còn sống tới bây giờ, người như anh vẫn sẽ sáng trong như vậy, nhân hậu như vậy. Người như anh sẽ không bao giờ nói hay viết điều gì trái sự thật, sẽ không bao giờ quay lưng lại với nhân dân mình dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người như anh, một đảng viên như anh vẫn sẽ thuyết phục được tôi hoàn toàn, dù tôi không là đảng viên. Bởi đảng viên như anh là xung phong chịu gian khổ trước, hưởng thụ sau, hoặc chẳng hưởng thụ được gì mà vẫn vô tư.
Người như anh giống nhân dân mình quá. Tôi đọc Nhật ký chiến tranh là để được một lần nữa trở lại với nhân dân mình ở một thời đau đớn nhất song cũng nhiều xúc cảm nhất. Từng dòng chữ trong cuốn nhật ký cứ ám ảnh, day dứt tôi, và hẳn không chỉ mình tôi hay những đồng đội của anh. Hai sĩ quan quân đội Sài Gòn, những người bị cuốn nhật ký ấy thuyết phục, cuốn hút hẳn cũng đã day dứt như tôi khi đọc nó. Bây giờ, hai anh ở đâu, những người lính ở "phía bên kia" nhưng không hề sát hại lương tâm mình, những người đã bảo vệ cho văn học VN thời chiến tranh chống Mỹ một tác phẩm vô giá.
Điều đó thoạt nghe hơi kỳ lạ, nhưng ngẫm kỹ, lại thấy có gì như tất định. Người VN dù nhất thời ở đâu, vẫn có thể tìm đến, vẫn có thể gặp nhau ở văn học, ở việc đọc một tác phẩm đích thực văn học.
Tôi thử giở - hoàn toàn tình cờ - một đoạn trong Nhật ký chiến tranh để các bạn thử đọc: "Thứ hai, 12-1-1970 (5 tháng Chạp, Kỷ Dậu): Nắng. Hôm nay tổ văn ở nhà sửa chữa bài vở lần cuối cùng để mai gửi đi duyệt. Truyện ngắn của Hải Học Người của đường phố mình phải sửa một lần nữa, nghe còn sượng. Buổi tối họp và thông qua bản thảo tập thơ và ca dao sản xuất lấy tên Vụ mùa thắng Mỹ, chiều nay một con lợn nữa đương khỏe mạnh, ăn rất dữ, rất nhanh nhẹn lại lăn đùng ra chết. Lần này không cho ăn vỏ sắn. Ông già Xót bảo là nó say sắn. Tiếc quá chừng. Đổ nước đường mà vẫn không cứu được".
Văn Chu Cẩm Phong cứ hồn nhiên gần gũi và chân thực như vậy từ đầu tới cuối cuốn nhật ký. Hình như cách đây mấy năm, Hội Nhà văn VN mới "tình cờ" đọc tới tác phẩm này và trao cho nó một cái tặng thưởng - một phần thưởng quá đơn sơ và hoàn toàn không xứng đáng với một tác phẩm như vậy. Đừng tặng thưởng vì tác giả đã hy sinh, tác giả là liệt sĩ. Cứ công bằng công tâm xét tặng một tác phẩm vì chính giá trị văn học, giá trị nhân văn của nó.
Tôi tin, nếu đọc kỹ và xét kỹ, người ta sẽ thấy đó là một tác phẩm "có chỗ đứng dưới mặt trời", dù xét nó là tác phẩm văn học thời chiến tranh hay tác phẩm mới xuất hiện sau hòa bình. Đó là một tác phẩm văn học có số phận, một số phận kỳ lạ và cũng chịu những hy sinh mất mát như chính tác giả của nó, nhà văn - liệt sĩ Chu Cẩm Phong.
Hà Nội, trong những ngày Đại hội Hội Nhà văn VN lần thứ VII