Người của những kỷ lục
Rong ruổi khắp các vùng quê xa, gần của Nam Bộ để tìm cây nọc cấy lúa, cây thước mộc xưa cũ hay cái phảng hoen rỉ đã bỏ đi không xài… Rồi khi tìm được, ông nâng niu những vật ấy như của báu, bởi vì với ông, đó là “nhân chứng” lịch sử qua các thời kỳ.
Ông chỉ là một người bình thường, không học hàm, học vị, chỉ duy có tình yêu “đồ cổ” và ông có cả một “kho tàng” như thế tại nhà. Lấy đâu ra tiền để mua đồ cổ?- ông cười và bảo: “Tiền từ việc đi và viết lịch sử Đảng bộ, địa chí, viết khảo cứu cho các địa phương ở ĐBSCL và miền Đông Nam bộ”. Quê ở huyện Cai Lậy, Tiền Giang, ông còn được mệnh danh là người của những kỷ lục.
Ông đã ẵm một lúc hai giải ba tại cuộc thi Những cuốn sách vàng lần III – 2006 với hai cuốn: Kim Vân Kiều tân truyện (bản chữ Nôm) – Nguyễn Du, khắc in năm 1879 và Dictionnaire élémentaire Annamite – Francais (Từ điển Việt - Pháp) của Legrand de la Liraye, in 1874. Ông cũng là người giữ kỷ lục hơn 100 kg tiền cổ …
Ngôi nhà của ông ở thị trấn Cai Lậy, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang còn có cả kho tư liệu về Hán - Nôm, những bản truyện Kiều có tuổi hơn trăm năm, những tài liệu về văn hoá dân gian, lịch sử mảnh đất Nam Bộ. Ông cùng các cộng sự đã viết hàng chục đầu sách khảo cứu văn hoá, lịch sử các địa phương ở Nam Bộ.
Cái duyên để ông đến với những cổ vật, nghiên cứu lịch sử, khảo cứu văn hoá Nam Bộ bắt đầu từ thuở ấu thơ. Gia đình ông từ ông nội đến cha và các chú đều có bằng tú tài Pháp và đọc, viết làu làu chữ Hán, Nôm.
Học sư phạm, ông còn đăng ký học thêm nghiên cứu lịch sử. Tốt nghiệp cũng là lúc đất nước thống nhất, ông trở về Cai Lậy - Tiền Giang công tác tại Phòng Giáo dục huyện, sau đó đi dạy học. Đến năm 1981 chuyển sang công tác ở Ban Tuyên giáo huyện Cai Lậy và chuyên viết lịch sử Đảng.
Những năm tháng công tác ở Ban Tuyên giáo, ông đã đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều giới và bắt đầu thấy tiếc những giá trị văn hoá, lịch sử của bậc hiền nhân thuở mở đất, các loại nông cụ cầm tay trong sản xuất nông nghiệp đã hoen rỉ và dần mai một...
Sẵn vốn chữ Hán, chữ Nôm, ông mày mò tự tìm học thêm và bắt đầu con đường nghiên cứu các giá trị lịch sử, văn hóa dân gian và sưu tầm đồ cổ. Ông kể: Nghĩ lại còn tiếc. Trước đây, có người đem bán cho tôi hơn 100 cái sắc phong thần, mỗi cái hơn 100 ngàn đồng. Lúc đó, tôi sợ mình mua là bất kính, sợ người ta bắt bẻ khó mà giải thích. Tôi biết phần nhiều trong những tờ sắc thần ấy bây giờ đã nằm ở nước ngoài… nghĩ tiếc đứt ruột! Nhưng phải biết sử dụng, chứ coi nó như của quý thì cũng không đúng mà phải có khả năng giải mã những điển tích trong tờ sắc phong đó để hiểu rõ sắc phong ai, ở đâu, vì sao lại được phong thần… Vốn kiến thức và chữ Hán-Nôm phải tỏ tường mới làm được.
Năm 1995, ông xin nghỉ sau 15 năm là công chức. “Tha” về nhà đủ thứ: những chiếc vò, hũ, thúng mủng, gàu tát nước, cặp liễn, sách vở, tài liệu,… Ngôi nhà nằm ở góc đường 30/4 – tỉnh lộ 868 thuộc Cai Lậy, Tiền Giang trở nên chật chội theo thời gian với khối đồ mà ông sưu tầm mang về. Ông bày những cổ vật từ trong nhà ra đến ngoài hiên, vườn… Rất “lung tung” nhưng khi muốn “thuyết minh” về món đồ nào, ông không cần mất công tìm kiếm mà lấy trúng phóc.
Ước mơ về một bảo tàng nông nghiệp
Có một thực tế, các triển lãm nông nghiệp ở nước ta chỉ chú trọng sản phẩm, giống cây trồng, vật nuôi mà chưa làm rõ vai trò và tiến trình phát triển của nông cụ. Từ chiếc máy cày nhập chạy bánh hơi, dân ta đã cải tiến chạy bánh lồng, các loại máy thủy động cơ được nông dân biến thành máy nước, máy hút bùn,… những bước tiến sáng tạo đó góp phần không nhỏ trong việc phát triển kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm nông nghiệp.
Bởi thế, trong hàng chục loại đồ mà ông sưu tập như tiền cổ, câu đối, đèn,… thì vấn đề ông theo dõi và chuyên tâm khảo cứu, sưu tầm rất kỹ là đời sống nông nghiệp và lịch sử cây lúa nước ở đất Nam Bộ. Ông tìm đến những thứ mà thiên hạ bỏ đi: cây nọc cấy, những chiếc phảng hoen rỉ, cái cối giã gạo mục nát, chiếc gàu rách nát,...
Với ông những nông cụ “đem chụm củi hay bỏ đi” ấy lại là vô giá bởi ông hiểu lịch sử và kỹ thuật canh tác nông nghiệp Nam Bộ trong khoảng thời gian hơn 300 năm khẩn hoang, mở cõi của cha ông một phần ẩn chứa ở đấy.
Ông tâm niệm: “Trong tiến trình cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp thì các loại nông cụ cầm tay đang ngày càng biến mất khỏi đời sống nông thôn. Những làng nghề rèn truyền thống cũng dần thu hẹp”. Nói đoạn ông bày ra thềm nhà cho tôi xem hàng chục chiếc nọc cấy đủ loại lớn nhỏ.
Tỉ mẩn cầm từng cái lên, ông giảng giải rất cặn kẽ, say mê… Cây nọc cấy vùng cù lao đất cát ở Chợ Lách, Long Hồ khác xa so với Măng Thít, Vũng Liêm hay Cần Thơ - Hậu Giang… Nào đây là chiếc nọc cấy vùng Gò Công khác nọc cấy Đồng Tháp Mười, vùng Gò Công đất cứng nên cây nọc phải nhọn, nhỏ và hơi dài. Ngược lại, miệt Đồng Tháp Mười cây nọc phải to, dài cỡ nửa thước, có thêm bộ phận để xé mạ bởi đây là vùng ngập lũ, đất phù sa.
Một chi tiết thú vị quanh chiếc nọc cấy là vùng nào có đỉa thì chiếc nọc cấy có thêm cái lỗ đặng bỏ vôi. Chưa hết, những chiếc cối giã gạo bằng gỗ sao, gỗ mù u là đặc trưng của vùng sông nước Tây Nam Bộ, còn cối giã gạo ở Miền Đông Nam Bộ là đá xanh…
Ông bày tỏ rằng các giá trị văn hóa vật thể hay phi vật thể ở đất Nam Bộ đều xuất phát từ lao động sáng tạo canh tác lúa nước của người Việt trong quá trình khai thác, chinh phục thiên nhiên vùng đất phương Nam. Vì lẽ đó, việc xây dựng Bảo tàng nông nghiệp vùng Nam Bộ cũng chính là bảo tồn các giá trị phát triển mới của văn minh lúa nước người Việt tại vùng này.
Theo ông, bảo tàng Nông nghiệp sẽ bao gồm: Những loại nông cụ, phương tiện phục vụ sản xuất nông nghiệp,… ; Lịch sử khai hoang lập làng trên mảnh đất Nam Bộ; Sáng tạo cải tiến nông cụ qua các thời kỳ; Bảo tồn các loại giống lúa địa phương, giống cây ăn trái, rau màu các loại. Hiện các Viện nghiên cứu, các trường ĐH đang lưu giữ rất nhiều giống, gien các loại lúa. Công việc như sưu tập, biên khảo lịch sử, đánh giá, phân loại nông cụ,… rất cần nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu góp sức…
Cuối năm Ất Dậu 2005, GS.TS Võ Tòng Xuân cùng một số cộng sự tìm đến Cai Lậy để tìm hiểu ý tưởng xây dựng Bảo tàng nông nghiệp của ông già Nam Bộ. GS.TS Võ Tòng Xuân khẳng định ý tưởng này rất hay và phù hợp vì ĐBSCL và Nam Bộ cần sớm có một công trình bảo tàng nông nghiệp tương xứng với vựa lúa cả nước.
“Nếu có điều kiện, tôi sẽ hiến toàn bộ những gì mà mình đã sưu tầm được. Tôi săn lùng cổ vật để phục vụ công tác nghiên cứu chứ không làm với mục đích làm giàu. Tôi không bán ra mà chỉ mua vào. Với tôi, những cổ vật vô tri ấy hàm chứa cả một câu chuyện đầy lý thú”.