Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
666
116.669.591
 
Hiệp Hội Tương Tế Bắc Việt Nghĩa Trang-1
Trần Vũ

Lời toà soạn:

 

Trong dòng văn chương hội nhập trong nước – ngoài nước, lần đầu tiên Văn chương Việt giới thiệu tác phẩm của nhà văn Trần Vũ, hiện sống tại Paris- Pháp.

Ký: “Hiệp hội tương tế Bắc Việt Nghĩa trang  kể lại chuyến trở về Việt Nam đầu tiên của tác giả sau 15 năm xa quê hương. Đây là một bút ký hay, xúc động với văn phong giàu cảm xúc. Thời gian, không gian trong truyện hoán chuyển liên tục, phản ánh tâm trạng xao động dữ dội của tác giả khi trở về Việt Nam nhớ lại tuổi thơ và những năm tháng đã qua của mình. Đọc để thấu hiểu về một thế hệ “chưa kịp hình thành đã vội tan vỡ” trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước.     Ban Mai giới thiệu.

 

Tôi mang gương mặt của đứa trẻ trong hình bước chân vào Bắc Việt nghĩa trang lần cuối buổi sáng tháng 5. Buổi sáng K vươn cánh tay khẳng khiu múa máy trong không khí. Tôi đếm một, hai, ba, như tôi vẫn hay đếm trước những ngôi mả xanh mướt ánh mắt người chết. Hành lang sáng. Thứ ánh điện trắng lạnh lẽo. Tôi đếm một, hai, ba, như tôi luôn tránh những ánh mắt người chết đăm chiêu, có khi trong vắt dưới mưa, như thể tròng trắng hãy còn sống long lanh giận dữ. Tôi mang gương mặt đứa trẻ đến chào dòng họ lần cuối. Buổi sáng có mưa, nắng rải rác, thứ mưa nắng thất thường nhiệt đới. K đạp xe phía trước, anh chưa hoá quỷ. Hai anh em gởi xe trước cổng. Bà cụ bán nhang vẫn chít khăn nhiễu, hàm răng đen, mà mỗi lần trông thấy tôi vẫn cảm giác kỳ lạ.

-   Bác mua hộ nhà cháu bó nhang.

-   Sao bà già vậy mà xưng cháu hở Thầy?

Tôi ngước hỏi. Thầy luôn nghiêm khắc, trong trí não tôi không sao có thể gọi bằng Bố, dù suốt quảng thời niên thiếu tôi không hề gọi bằng Thầy. Có một phiến kính vô hình ngăn trở giữa tôi với Bố Mẹ. Mỗi tháng, tôi theo Bà vào nghĩa trang, gió vồng lên hai vạt áo dài của Bà phất bay phía trước. Tôi luôn dụi mặt vào ngấn cổ chị ở thiêm thiếp giấc ngủ chập chờn giữa những ngôi mả. Ðôi lúc tôi lẫm chẫm bước theo Thầy, vẫn giữa hai hàng mả quen thuộc với những đôi mắt không bao giờ khép.

 

Buổi sáng bước chân lên trung học đệ nhất cấp, Thầy dẫn tôi vào nghĩa trang cúng bái. Tôi bắt đầu trông rõ xã hội vây quanh mình. Xã hội nhỏ bé, giới hạn từ ngôi nhà mặt tiền trên đại lộ Hai Bà Trưng đến trường Taberd có chiếc cổng sắt sơn xanh to lớn, nặng nề, đóng sầm ở mỗi tiếng kẻng và bóng các sư huynh thước tha trong tấm áo dòng che dấu ác độc. Xa hơn nữa, làng Ðại Học Thủ Ðức, nơi Bà cho chúng tôi về tắm piscine mỗi cuối tuần, trong villa gia đình lặng lẽ.

 

Ngôi biệt thự ở số 221 đường Yersin làng Ðại Học Thủ Ðức cũng im vắng như nghĩa trang, không bóng người ở. Chỉ chú Lễ mở cổng và tiếng sỏi rạo rạo dưới bánh xe. Bao giờ bà cũng cho chúng tôi tắm hồ bơi hai tiếng rồi chú Lễ đánh xe về. Hai tiếng, bằng khoảng thời gian tôi với K ở nghĩa trang. Bà cụ chậm chạp rỡ lớp ny lông với mấy ngón tay héo úa, tôi còn nhớ như in ngón cái bẻ quặp vào trong khó khăn lôi mấy bó nhang đã bạc thếch. Lần nào Thầy cũng mua, dù ở nhà Bà đã dặn đem theo nhang thắp. Tôi biết Thầy mua giúp. Tôi chỉ không hiểu vì sao bà cụ già lắm, nhăn nheo, khô khốc, chiếc khăn nhiễu không che hết quắt queo đã xưng Cháu với Bác. Thầy bằng tuổi tôi bây giờ. Thầy cũng chết trẻ, như tất cả đàn ông trong họ chết trẻ, nhà này chỉ có phụ nữ sống lâu, Bà bảo vậy.

- Người Bắc những nhà nghèo xưng thế.

Thầy đưa tiền cho bà cụ, giải thích. Người Bắc? Tôi hay nghe thấy hai chữ này, suốt thời niên thiếu. Người Bắc? Thứ người tôi vẫn chưa sao phân biệt giữa những khuôn mặt khách thăm viếng lễ Tết, chỉ trông thấy rõ rệt họ nằm đây, trong nghĩa trang này.

- Con là người gì?

- Con là người Bắc di cư.

Thầy trả lời. Tôi hiểu, tôi thuộc về thế giới của người chết, đang nằm đây, và chỗ của tôi bên cạnh họ. Ngôi chùa có mái tỏa cánh sen, rộng lớn. Thầy luôn lễ ở chùa, rồi ra miễu Thổ Thần, Thành Hoàng. Mùi nhang khói in đậm suốt tuổi thơ, phả hắt ở bậc tam cấp. Thứ hơi u uất, mà chỉ ngửi, tôi biết ngay mùi của người chết. Khu đất mênh mông, mộ lập san sát trùng điệp kín mít. Tôi đã nghĩ, tất cả người Bắc chôn ở đây. Suốt tuổi hoa niên, nắng phủ trùm lên những dẫy bia không chấm dứt.

- Phú Thọ, Nam Ðịnh ở đâu Thầy?

 

Tôi chạm tay lên vách đá. Những chữ khắc trên văn bia ghi những địa danh xa lạ, cũng đầy xa lạ như tấm bình phong cẩn xà cừ thô nhám. Tôi chưa bao giờ trông thấy những kiến trúc nhà ở thu hẹp hiu hắt đến vậy. Rõ ràng là một ngôi nhà, có cổng uốn, rào sắt, tường vây, một hồ nước với sân bái đường lung linh nắng. Dăm gốc hoa dâm bụt, một rặng giấy buông lay lắt, rõ ràng một cảnh đời tiếp tục trong chờ đợi.

 

Tôi đọc mấy chữ Chánh quán Phủ Nho Quan, sinh quán Móng Cái, Quảng Ninh hưởng dương, thất lộc... không hiểu, những nơi chốn tôi chưa hề nghe thấy.

-   Phú Thọ là chỗ ông nội mở hiệu thuốc Bắc, Nam Ðịnh ông chú có hiệu bánh ở đấy.

Thầy kiên nhẫn giảng giải. Tôi khám phá đất Bắc trên bia mả.

-  Bác mua hộ nhà cháu bó nhang.

 

Bà cụ chít khăn chữ nhất, răng đen suốt, mời. Vẫn bà cụ tháng trước, năm trước, mười năm trước. Vẫn túi xách phủ ny lông, luôn ở đó từ khi tôi biết đến chỗ chôn người Bắc. K mua bó nhang. Cử chỉ K y hệt Thầy, từ cách móc ví, trả tiền, nhận tiền thối, đến lời cảm ơn, cũng là lời cảm ơn Thầy dạy chúng tôi cách cư xử với người lớn. Bà cụ rỡ ny lông rồi bao lại dưới mưa, không khác. Thầy đã vào nằm trong nghĩa trang bốn năm trước. Ngày đưa ma, tôi nhớ bà cụ ngồi đó, sao bà cụ không nhớù? Buổi sáng tháng 5, mưa lất phất, Sàigòn vừa thất thủ 13 ngày, đám ma không kèn trống, tôi lếch thếch đi sau áo quan Thầy, K ôm ảnh, tôi cầm bát nhang, hương khói ràn rụa. Cô Lìn khóc hết nước mắt. Cô Cắm, cô Sìn ngất xỉu, chú Hổi, chú Ốn, chú Hênh tất tả, anh cả mất rồi. Tôi không khóc, tôi quay nhìn bà cụ vẫn ngồi ở đó. Bà không đi đưa. Theo tục lệ người Bắc, chồng chết vợ không đưa ma, Bà bảo vậy. Tôi không khóc, tôi được 12 tuổi, gió phất tấm khăn sô tôi đội đầu tiên trong đời. Ðám tang Ông, tôi 4 tuổi, Bà dấu tôi trong bệnh viện bác sĩ Nguyễn Duy Tài ở đường Duy Tân, sợ tôi ám ảnh cái chết. Ðám tang chị Zính tôi chưa sinh ra, tôi đưa ma lần đầu với cái chết của Thầy ngày miền Nam sụp đổ. Tất cả gia đình tôi chôn ở đây. Tôi muốn hỏi bà cụ có biết? nhưng K đã kéo đi.

 

Buổi sáng. Bàn tay K lạnh. K nắm tay tôi qua những ngôi đất. Cũng như lần chót tôi nắm tay anh. Không. Ðúng hơn anh nắm tay tôi, lạnh cứng. Tôi thở ra khói, những tấm rèm rũ, tôi cúi xuống để không trông thấy mặt K. Tôi đếm một, hai, ba, ước ao có ai đó ở bên cạnh, có ai đó đứng cười ở cửa, có ai đó đốt hộ điếu thuốc, và có Bà để tôi ngã vào lòng khóc oà.

-   Con phải thuộc lối đi để sau này vào thăm gia tộc.

 

Thầy vừa đốt vàng mã, vừa dặn. K thưa vâng. Bao giờ K cũng có hiếu, nghe lời. K không giống tôi, luôn thắc mắc. Buổi sáng nắng trì chiết khói nhang, thứ nắng nặng nề, phải sau này tôi mới hiểu, chỉ có ở Việt Nam. Hai anh em bước qua dẫy mả. K không kiếm ra lô đất, tôi phải hướng dẫn. Tôi không thuộc lối, nhưng thuộc những mặt người. Những ông lão trai tơ, những cụ bà vợ hiền lập mộ, đến đó phải quẹo. Trịnh Thu Thủy, có đôi mắt sáng, môi tươi, nằm ở đầu lối rẽ vào mả chị. Buổi sáng K phát cỏ, tôi bắt đầu khám phá những người khác phái có sức thu hút kỳ lạ, ngay cả sau khi chết. K quét mả. Tôi rỡ mấy bánh oản, giấy bóng kính xanh đỏ. Chị Zính mất năm 7 tuổi, tôi chưa biết mặt. Bà nói chị rất thiêng. K van vái xin chị phù hộ cho chuyến đi sắp tới. Tôi chưa hiểu tính cách trầm trọng của cuộc ra đi, chỉ biết mình sẽ không bao giờ được chôn trong Bắc Việt nghĩa trang. Hôm đó, tôi đã hỏi K, vì sao gia đình mình người Tàu nhưng chôn trong nghĩa trang Bắc Việt? K không biết tại sao, chỉ trả lời có lẽ do thói quen, không thiếu một ai, từ đời ông cho đến đời chị, cả Bà còn sống nhưng cũng đã mua sẵn cho mình một kim tĩnh bên cạnh chỗ Thầy. Chỉ thiếu có tôi và K, những đứa cháu đích tôn của một giòng họ chỉ mới lưu lạc từ Trung Hoa sang Việt Nam chưa quá một trăm năm. Một giòng họ Quảng Ðông đã chọn nghĩa trang của người Bắc làm nơi an nghỉ.

 

*

 

Tôi mang gương mặt của đứa trẻ trong hình 15 năm sau trở về. K vươn cánh tay lên múa máy. Ðôi tay anh khẳng khiu như cánh tay vũ công ballet chấp chới, cố nắm níu sự sống thay cho đôi chân đã bất động. K đang hoá quỷ. Tôi sợ hãi đếm một, hai, ba, mong cho hành lang không chấm dứt. Tôi đếm một, hai, ba, sợ hãi hành lang hun hút, muốn tất cả biến đi, đừng bao giờ hiện diện. Hơi nóng dồn lên ở cửa. Tấm kiếng mở ra hắt dội tiếng động vỡ bùng. Âm thanh hỗn loạn. Tiếng la hét. Chưa bao giờ tôi rơi vào chuỗi âm thanh hỗn độn đến vậy. Thứ âm thanh của những ngày cô nhi viện đứng trên nóc chuông nhà nguyện trông xuống cánh đồng mênh mông vàng cháy, im phắt, tựa một bức tranh tĩnh vật vô hồn, vô cảm, tôi đã thèm quay quắt nhớ rã rời tiếng súng AK trong đêm tối, tiếng M-16 bắn trả, và tiếng xích sắt của thiết vận xa M-113 quần nát mặt đường. Tôi mặc áo mới, buổi chiều mùng 2 Tết, ống tay là thẳng như tuổi thơ ngăn nắp. Tôi đứng trên sân thượng đếm tiền lì xì, phong bao đỏ phẩm, tôi trốn K, sợ K biết tôi nhiều tiền hơn. Tôi bất chợt trông thấy lính Mỹ ở building đối diện đặt súng đại liên bắn xối xả xuống lòng đường chỗ hiệu phở Bình góc Yên Ðỗ, nơi đặc công Bắc Việt xuất phát. Những đường đạn reo kinh dị. Súng nổ inh tai như pháo sáng mùng một hãy còn đỏ thắm trước cửa nhà. Tôi say mê tiếng súng như đã mê đốt pháo, cùng lúc sợ hãi, bưng lấy tai, Bà hét gọi chị Ni bế tôi xuống. Chị Ni chạy quýnh quáng. Tôi quắp lấy chị ở như vẫn hay quắp lấy chị những sáng tảo mộ trốn những gương mặt người chết. Thầy không cho vặn đèn, ngôi nhà bốn tầng tối om. Tôi vít lấy Bà, cố đoán trên gương mặt Thầy những âu lo từng chập theo tiếng súng an nguy râm ran, thắp thỏm rồi đứt quãng dưới chân cầu thang nơi cả nhà túm tụm đầy sợ hãi. Khi có tiếng trực thăng phần phật muốn thổi bay mái, gương mặt Thầy rạng rỡ, Phía mình thắng rồi, Thầy nói trong hơi thở. Tôi ngửng lên trông thấy hân hoan trong mắt Thầy. Tôi ngửng lên trông thấy chiến thắng trong phim Cao Bồi. Tôi thiếp vào giấc ngủ khi Thuỷ Quân Lục Chiến dọn dẹp khu phố. Tôi thiếp vào giấc ngủ với ý nghĩ Phía Thầy thắng rồi, với giấc mơ trẻ thơ, tôi làm kỵ binh áo xanh bắn rụng từng tên mọi da đỏ dưới chân cầu Kiệu.

 

K bơi trong vũng nước đen. Cánh tay anh vốc lên rồi thả xuống, chậm rãi, đều đặn. Tôi bơi theo K trong giấc ngủ. Mặt nước loáng loáng trong suốt. Tôi trông rõ cả thân anh đang hoá quỷ. Da thịt đen xạm và tóc rụng trắng. Nước lùa những lọn tóc trắng trôi nhấp nhô, giữa đầm lạnh toát. Tôi gạt tóc, bơi trong nước đen sẫm. K bơi phía trước. Hai vách đá hai bên thẳng đứng, những mỏm đá nhọn hoắc, chúng tôi bơi ra cửa biển. Tất cả xám tuyệt vọng, tựa những fjord Phần Lan buổi tối băng giá. Nước lạnh buốt. Tôi cất tiếng gọi, nhưng anh vẫn bơi mãi miết, về phía trước, hũng đen thăm thẳm cứ mỗi lúc một lớn dần trôi hút cả hai anh em về một phía. Tôi nhận ra cõi chết. Tôi muốn đuối, nước vỗ mang tai hắt dội tiếng đập của lồng ngực. Hai chân tôi tê cóng, tựa liệt, tôi cảm giác bị liệt, cảm giác rõ rệt sự chối từ của thân xác, nước tiếp tục chảy xiết đẩy K xa dần. Tôi mơ giấc mơ đó nhiều lần, giữa đêm, khi về sáng, trên cả chuyến bay trở về.

 

Cánh cổng mở ra. Nắng hực lên lưỡi kiếm cắt đứt đôi người mà tôi không kịp nhận biết. Nắng phừng lửa như lúc Thầy hắt rượu tống đạt vàng mã.

-   Quê con ở đâu Thầy?

 

Tôi hỏi, say mê ánh lửa xanh phả phất mùi rượu đế. Lửa cuốn lên tro của mỗi mùa tựu trường tôi luôn ngạc nhiên nghe đám bạn kể chuyện về quê. Ðứa về Cần Thơ, đứa xuống Sóc Trăng, đứa đi Long Xuyên hay ra Ðà Nẳng. Ông tao có cặp trâu trắng hết xẩy. Bà tao nuôi ong lấy mật cho tao uống. Tất cả hương quê và ông bà dậy lên câu chuyện. Tôi không đi đâu chỉ biết Sàigòn, xa lắm xuống Ô Cấp một hai tuần tắm biển. Tôi không có quê hay đúng hơn quê tôi ở trong nghĩa trang.

-  Quê nội con ở Vĩnh Phú, có sông Thao, quê ngoại con ở Sơn Tây.

 

Thầy trả lời chậm rãi. Thầy hay kể về những danh lam thắng cảnh miền Bắc mà tôi không bao giờ trông thấy, không bao giờ có thể thăm viếng, nhiều lắm chạm tay lên vách mả, mường tượng sau những chữ khắc, trong đôi mắt người chết, một chút thôn quê, những cánh đồng đất Bắc thổi lướt mưa phùn, những bãi rươi tháng 5 ở Hải Phòng, khu Tam Ðảo mù sương, mái chùa Hương chót vót hay mái chùa Thầy tịch liêu, quê tôi thật sự ở trong Bắc Việt nghĩa trang.

Nắng loá mắt. Tôi đẩy xe khó khăn. Mọi người chen lấn. Tôi nghe tiếng Bà gọi, thất thanh mà rất nhỏ, chìm lẫn trong hỗn độn của phi trường. Nhưng tôi nghe thấy, tiếng Bà tôi không sao quên, tôi nghe mỗi đêm, từng đêm của cô nhi viện một mình tôi trăn trở trong dortoir lạnh buốt hoang vắng.

-  Vũ, Mẹ đây. Anh đâu?

 

Bà ngồi bẹp ở hàng rào sắt cố lùa cánh tay xương nắm níu. Cánh tay bà cũng khẳng khiu như cánh tay K, muốn nắm lấy tay tôi lần nữa. Bà ngồi bẹp giữa đám đông xô đẩy. Dáng Bà y dáng bà cụ bán nhang ngồi trước cổng Bắc Việt Nghĩa Trang. Hàng rào sắt ngăn cách như phiến kính vô hình suốt tuổi thơ đã ngăn trở tôi với Bà. Bà quắt queo, nhăn nheo y bà cụ nghĩa trang. Tôi gọi Mẹ. Cánh tay bà chới với. Phi trường Tân Sơn Nhất như một chợ cá. Bà nắm lấy tay tôi như K đã nắm lấy tay tôi lần chót.

-   Vũ, Mẹ đây. Anh đâu?

 

Giọng Bà khản, hốt hoảng. Tôi không kịp suy nghĩ. Tôi không thể suy nghĩ. Nắng chói chan như nắng ở nghĩa trang. Hơi nóng, hơi người lấn đẩy. Tôi vẫn chưa ra khỏi hàng rào sắt. Tôi bực bỏ, tại sao tổ quốc không xây nổi một nhà đợi cho những bà mẹ Việt Nam đợi con đợi cháu, trong bóng râm, trên ghế nệm? Tại sao tổ quốc bắt Bà ngồi bẹp trên lề đường như ăn mày? Bà không ăn xin, Bà chỉ đợi tôi, mười lăm năm. Sân bay khinh người. Sân bay chỉ biết tính thuế phi trường.

-   Vũ, Vũ, chị đây.

-   Vũ, Vũ, cô đây.

 

Chị N khóc. Chị lếch thếch, quần áo xốc xếch, nhầu nát. Tôi nhìn chị ngỡ ngàng. Chị hoa khôi Thiên Phước, hoa khôi Les Lauriers, Marie Curie, nữ sinh trường Ðầm, bế bé Nhí, mặc chiếc áo đầm cũ nát tôi gởi về 10 năm trước. Cô Lìn xanh tái hơn ngày đưa tiễn Thầy.

-  Chời ơi máy bay đến trễ đợi em quá chời, tưởng cháy rồi.

 

Anh T đỡ valise. Anh cao lớn đẹp trai trong trí nhớ, nam sinh Marie Curie, gia đình Bắc di cư lấy chị 15 năm bằng thời gian tôi vượt biên, bây giờ anh mặc áo công nhân lam lũ, nói giọng Nam, như một từ chối đất Bắc. Tôi không hiểu. Nắng chói loà. Nắng gay gắt như tuôn lửa. Bé Vinh khóc. Bố, con sợ. Bé Vinh níu tay tôi, như tôi đã nắm vít lấy Thầy buổi chiều Mậu Thân đặc công tấn công building Mỹ. Bà khóc. Anh đâu? Bà hỏi. Tôi muốn khóc. Tôi muốn nói anh đang hoá quỷ, nhưng tôi không thể nói, bãi xe như ong vỡ, tài lôi kéo, chụp giật, Việt kiều đi xe này bảo đảm, đời mới, xe cá mập có máy lạnh, đồng hồ cây số, anh tránh ra tôi có xe nhà, đừng nghe tụi nó anh thuê xe rồi, coi chừng mất cắp, đứng gần cô, cháu Vinh đâu? đứng gần mẹ, đếm đủ hành lý chưa, bao nhiêu valise? Tôi rời phi trường lúc nào tôi không rõ. Gia đình đẩy tôi lên xe. Tôi cố quay nhìn một lần nữa, chưa bao giờ tôi được vào Tân Sơn Nhất, giấc mơ của tuổi thơ. Tôi cố kiếm con đường nhỏ dẫn vào Bắc Việt nghĩa trang bên hông, chỉ trông thấy tấm bảng lớn Ga Ði Quốc Tế Tân Sơn Nhất. Tại sao tiếng Việt lầm than đến mức này? Tại sao không viết Phi Cảng Khởi Hành Quốc Tế Tân Sơn Nhất? Tất cả vỡ oàng hỗn loạn, tất cả chồng chất, quá khứ, thực tại, âm thanh của 15 năm trước trộn lẫn 15 năm sau, con người 15 năm trước sống sót biến hoá 15 năm sau. Bé Vinh im thin thít, lần đầu tiên trông thấy quê bố. Tôi gắng hỏi khi xe qua Bộ Tổng Tham Mưu.

-  Ði đường Chi Lăng hở cô?

-  Không đường Trường Sơn cháu.

-  Sao không đi đường Trương Minh Giảng cho gần cô?

-  Phía Lê Văn Sĩ kẹt xe lắm cháu.

 

Cô Lìn lấy chú Chúng sĩ quan hải quân hoa tiêu VNCH nhưng cô đã quên hết. Tôi nhớ tất cả, nhà thằng Ðỗ Hoàng Phượng răng khểnh trong lớp kêu Miêu Khả Tú bán bàn ghế ở Võ Di Nguy, xe chạy qua, tôi còn ngoái nhìn xem mẹ nó còn bắt ghế ngồi ngoài cửa hay không. Hiệu bún bò Tân Thanh đặc công núp ở đó bắn lên building Mỹ khiến ông Tân Thanh bị cảnh sát Dã Chiến còng đi tình nghi che dấu Việt Cộng. Tôi bước xuống xe cố tìm bà bán cóc ổi, me chua, tầm ruột, tôi ăn quà mỗi chiều cắn xoài ngâm đến ê răng, nhưng chỉ có cô gái nhỏ ngồi nhoẻn miệng cười.

-   Bác có Việt kiều về thăm hả bác? Cô gái hỏi.

-  Việt kiều gì, con tôi đấy. Bà trả lời.

-   Chú Việt kiều biết ăn tầm ruột không?

Cô gái đon đả. Anh T đang khuân từng chiếc valise xuống. Bà chào tổ trưởng, hàng xóm đứng bu quanh. Tôi nhìn thúng trái cây, vẫn những quả me ngâm đường hoá học thuở trước vàng lẳng nổi bập bềnh trong thau nước, những rỗ tết đứt cọng, những lá chuối tươi lót cóc ổi và đàn ruồi xanh bay toả dưới nắng. Vạn vật không khác, từ lề đường xi-măng đứt khúc, cao thấp, trồi sụt, cả tấm che nắng sơn trắng của cảnh sát Cộng Hoà bây giờ xẩy lở ở cột đèn. Chỉ có Dì Sáu không còn ở đó. Dì trôi lạc phương nào tới tôi không biết. Tôi mở mắt chào đời Dì đã ở đó, trước sạp cóc ổi. Những trưa nắng Dì dúi cho tôi những củ ấu lúc đứng đợi ông xích lô chở đi học mẫu giáo. Những chiều tiểu học ở trường Lasan về, tôi nhảy ùm khỏi xe chú Lễ, Dì cho tôi miếng xoài ngâm chấm ruốc cay chua mặn chát. Tôi khám phá trái cây miền Nam trên sạp Dì Sáu. Không trái nào tôi không biết, từ trái cerise ta bé tí, quả cà na nhọn, lát mãng cầu xiêm, trái bòn bon, đến quả sim tím ngắt lưỡi.

-  Ngó chi dữ? Dì Sáu cười tươi, xoa đầu.

-  Hổm rày học tới đâu?

-  Onzième. Tôi trả lời hãnh diện.

-  Cái gì? Lớp mấy?

-  Onzième!

 

Tôi la. Thuở nhỏ tôi sớm khó chịu, tôi là hoàng tử, Bà bảo vậy.

-  Ừ, ôn dèm. Ăn cóc không?

 

Tôi gật đầu. Dì cắm cho tôi quả cóc to nhất, xanh mướt, khía xoè như những cửa sổ của ngôi nhà tí hon có nắp. Không phải vì bán trước lề nhà Bà nên Dì cho tôi ăn miễn phí. Tôi luôn thấy trong ánh mắt Dì những trìu mến, mỗi khi Dì vuốt má, nắn tay, xem tôi mập ốm.

-  Ðừng nói Bà nghe nhe, Bà la chết.

 

Dì dặn. Tôi vừa cắn quả cóc vừa gật đầu. Bà mà khám phá tôi ăn quà vặt, sẽ la Dì chết, và thế nào Bà cũng sai chị Ni ra trả tiền mấy quả me, quả cóc Dì cho tôi. Con trai không ăn vặt, không ăn hàng ngoài đường. Bà luôn nghiêm khắc.

-  Chú Việt kiều biết ăn tầm ruột không?

-  Việt kiều gì, con tôi đấy. Bà trả lời.

-  Con Lài con dì Sáu. Con ăn cóc không?

 

Bà hỏi. Tôi lắc đầu. Tôi không nhận ra nét nào của Dì Sáu trên gương mặt cô gái, nhưng tôi nhận ra lề đường chỗ tôi đang đứng. Giống cuốn album cũ ai vất xuống mặt đất tung toé. Tôi nhận ra khúc xi-măng bể, còn phản chiếu nỗi bàng hoàng của buổi sáng Bà cho U Ðào về quê. U ở cho gia đình tôi lâu lắm, Thầy nói từ đời Ông, năm U mười bốn. Tôi đã chào đời trên cánh tay U ẵm bồng, đã ngủ trên cánh tay U thay cho Bà bận bịu buôn bán. Mỗi khi tôi thức giấc, chiếc quạt nan trên tay U phe phẩy gió. Mỗi khi tôi khóc U dỗ dành, tôi không sao có thể hình dung có ngày U sẽ biến đi, đột ngột, như một chiếc bóng. U giống một thành viên trong gia đình, dù im lặng, không tiếng nói. Tôi đi học, U mở cửa. Tôi về nhà, U đun nước tắm. Tôi ăn sáng, U mua xôi. Tôi đói khuya, U đi mua hủ tiếu. U tập cho tôi ăn sầu riêng dù Bà không ăn. U tập cho tôi ăn mì Quảng dù nhà chỉ ăn món Bắc. U già lắm, già hơn bà lão bán nhang trong nghĩa địa. U chăm cho chị N, đến K, rồi đến tôi. U không bao giờ nói chuyện, làm như cuộc đời U không có gì để kể. Ðôi bận, tôi hỏi quê U ở đâu? U không biết. Tôi hỏi U có chồng không? U cười.

-   U lấy chồng ai trông cậu.

-   Thế U không có nhà cửa cha mẹ chi hết?

Tôi thắc mắc. U lắc đầu.

-   Vậy quê U cũng ở trong nghĩa trang à?

-   Nói bậy. Cậu ngủ đi, thức mãi Bà thấy Bà la.

 

U quạt gió, lùa những ngón tay già nua vào trong áo gãi trên lưng tôi đang hâm hấp cơn sốt vỡ da có những hạt mụn li ti vừa nhú. Tôi thiu thiu giấc ngủ mộng mị về một vùng đất nào đó xa xôi mà U đã sống, đầy bí ẩn.

 

Về quê, trong tiếng Bắc, lúc nhỏ tôi đã sớm biết mang nghĩa cho nghỉ việc. Tôi đã trông thấy thằng Thành giúp việc, chị Hoa đầu bếp, chị Hương sổ sách, cả chú Lễ tài xế, chị Ni Bà cho về quê. Về quê, có nghĩa biến mất vĩnh viễn, không bao giờ hiện ra trở lại. Sau 75, gia đình tôi sa sút, Thầy mất, cửa hiệu xuất nhập cảng xe gắn máy bị đánh tư sản, villa Thủ Ðức bị tịch biên, Bà lần lượt cho về quê tất cả, kể cả chị Huệ Bà tin cẩn, chỉ trừ mình U. Cho đến một buổi tối tôi nghe Bà nói với cô Cắm, nếu U chết trong nhà không có tiền ma chay. Cô Cắm nói thấy U còn mạnh. Bà lắc đầu trên 70 chết lúc nào không hay, U về quê đỡ một miệng ăn. Sáng hôm sau U tất tả bị gói ra xích lô máy đi ra bến xe nào đó đưa U về Quảng Ngãi. Chị em tôi khóc. Tôi giận Bà nhưng không dám hỏi, không dám nài nỉ, tôi biết nhà nghèo lắm, cảnh nhà thê thảm ở từng mỗi bữa ăn chỉ còn mì sợi và đậu đỏ. Buổi tối U còn gãi lưng tôi lần cuối, tôi khóc rắm rức trên gối, U thức suốt đêm phơi quần áo cho K, ủi nốt mấy chiếc sơ mi cho K ngày mai đi thi, lau chùi bếp núc sạch sẽ, rửa hết nồi niêu soong chậu cho chị kể từ mai phải thay U vào bếp. Suốt tối tôi ngồi xem U xếp mấy bộ bà ba, vài chai lọ cho vào bao, dọn dẹp mọi thứ, U làm nhanh như con gái, như thể U chưa già, như thể U muốn trở ngược thời gian để Bà đừng cho về quê. Trong giấc ngủ nửa mơ nửa tỉnh, tôi thấy hình như U muốn ôm tôi, hình như U muốn hôn lên trán tôi, những ngón tay U xoa lưng suốt đêm cho đến lúc có tiếng Bà hỏi sao U chưa ngủ, để cho cậu ngủ, mai cậu còn đi học, U còn đi sớm.

 

Buổi sáng U ra đứng chỗ tôi đang đứng, đợi xe. Mắt U đỏ hoe. U cố gắng không khóc, sợ tôi khóc. Tôi hỏi U đi đâu? U về quê. Sao U nói U không có quê? U có quê. U chùi nước mắt.

-  Cậu ở lại học giỏi cho Bà vui.

-  U nói dối! U không có quê. Quê U ở trong nghĩa trang!

 

Tôi khóc, níu áo không cho U đi. U cũng khóc.

-  Cậu buông U ra kẻo Bà la.

Xe xích lô máy đến. Tôi nhớ Bà chỉ đủ tiền cho U bảy mươi đồng Giải Phóng. 70 đồng cho một đời ở đợ. Tôi cố gắng không khóc, con trai không được khóc, Bà luôn nói, nhưng nước mắt tôi đầm đìa, tôi níu chặt áo U, nhưng Bà đã hối U lên xe, U còn cố nắm tay tôi lần cuối, nhưng xích lô máy đã phóng đi giật kéo tay U giữa bụi khói. Tôi giận dỗi Bà mấy tháng liền trong im lặng. Tôi giận dỗi Bà tiêu tán tuổi thơ, bắt tôi khám phá xã hội tàn nhẫn của người lớn. Tôi giận dỗi đất nước đã không cho phép gia đình tôi nuôi một con người. Tôi không biết nếu Ông còn sống Ông có cho U về quê? Tôi không biết Thầy còn sống, Thầy có cho U về quê? Tôi biết Bà đã cho U về quê chỉ vì muốn dành miếng ăn cho chúng tôi, nhưng tôi vẫn giận dỗi Bà đã bắt tôi chứng kiến cảnh U đi vào cõi chết.

 

*

Tôi mang gương mặt đứa trẻ trong hình 15 năm sau trở về. 15 năm sau thức giấc giữa thành phố tôi đã sinh ra, lớn lên và bỏ đi. Tôi mở mắt, hành lang trắng bóng. Tôi nhắm mắt, những con số 401, 402, 403 lớn dần lên. Tôi mở mắt, những con số nối tiếp không dứt. Tôi đứng im rất lâu trước cánh cửa cuối hành lang trắng toát. Tôi muốn tất cả bên trong trống rỗng. Tất cả biến đi đừng xẩy đến. Chỉ cần tôi mở cánh cửa ác mộng sẽ tan biến. Chỉ cần tôi mở cửa nắng sẽ ập đến sáng lừng lên xóa lớp mây xám dầy của Châu Âu, xoá nền trời trĩu nặng và xoá tất cả vật đổi sao dời của 15 năm chia cách. Tôi mở cửa. Tôi đứng ở bãi Cháy. Nắng gay gắt, đất Bắc hẹp như thước kẻ kéo một vạch dài trước vịnh Hạ Long. Ðất Bắc tôi đọc trong tiểu thuyết, trông thấy trên các vách mả, đất Bắc của tổ tiên, của Thầy, của Bà, của K muốn tôi về thăm viếng giùm. Tôi đứng ở bờ cát, nước lặng lẽ. Biển mấp mênh với những cù lao tít tắp, những hòn chi chít bất động. Biển không khác biển Phi Luật Tân nơi tôi với K đã giạt vào. Cù lao không khác hải đảo Liminancong nhỏ khoẳm bằng lòng bàn tay nơi tôi đã đi xin ăn. Hạ Long cũng y mũi Né Phan Thiết với đám ruồi xanh bay toả trong không khí. Tôi đứng ở bãi Cháy trong yên lặng của buổi trưa không tiếng động, tuồng tất cả chỉ là cảnh vật, một bức tranh mà tôi đứng ngoài, một cuốn phim đang trình chiếu mà tôi không tham dự, không thủ diễn một vai nào hết. Chỉ vài giờ đồng hồ nữa tôi bước lên xe du lịch đoàn chị Thanh vợ anh Bảo Ninh mua hộ vé, tất cả sẽ biến mất.

 

Giống một bức tranh bôi xoá mà tôi đứng ngoài không ảnh hưởng.

-   Trường chị tổ chức tham quan, Vũ đi với các giáo viên, yên tâm. Chị Thanh nói.

-   Anh giai Nam Bộ vào chơi đấy à?

Mấy gã thanh niên sấm sẩn vào trong nhà khách Nguyễn Ðình Chiểu. Tôi đang ngồi trong câu lạc bộ khách sạn, tôi muốn nói tôi là người Bắc, không phải anh giai Nam Bộ. Ðám ăn xin đểu đã sừng cổ.

-   Anh giai Nam Bộ đưa năm chục nghìn xài chơi.

 

Tôi luống cuống. Tôi muốn nói tôi người Bắc, Bà sinh ở phố Hàng Ðào, Thầy ở phố Trần Nhật Duật. Tôi là đứa con của Thăng Long trở về nhà. Nhưng tôi không nói được, 50 ngàn với hình Hồ Chí Minh là giá trị duy nhất. Anh Bảo Ninh quát.

-    Này các cậu vừa vừa thôi, cậu em tôi trong nhà cả đấy.

 

Ðám ăn xin đểu lui ra. Tôi bước chân vào quán Cầy Tơ Bốc Lửa ở Quảng Bá. Tôi ngồi trên chiếu hoa cạp điều của Doãn Quốc Sỹ ngày xưa tôi đọc trong sách. Tôi ngồi trên câu thơ mê mẩn thuở nhỏ, trải vách quế gió vàng hiu hắt. Chủ hiệu dẫn tôi xuống dưới gầm nhà sàn xem chó. Ðôi mắt chó trong veo tựa đôi mắt tôi thời nhỏ. Rõ ràng con chó đang khóc. Tôi quay mặt tránh nhìn ánh lửa hàn xì mấy thanh niên đang thui chó ở sân sau. Mùi thịt chó trong Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng thơm nức mũi. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi kêu bia Tiger uống kèm với đế. Tôi muốn uống rượu chát nhưng không có. Thịt chó nặng, nồng hơn thịt trừu, uống với Haut-Médoc hay Sidi Brahim là tuyệt, vỏ nho dầy đậm sẽ làm ngọt miếng thịt, nhưng trí não tôi chỉ phân tích được đến đó, từ Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng đến bây giờ tôi ngồi đây ăn miếng thịt chó đầu đời là một khoảng trống.

 

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cười nhỏ nhẹ. Ông thương tôi như đứa em nhỏ. Tôi sinh ra để được mọi người thương mến. Tôi là đứa trẻ viết truyện được cưng chìu hết mức. Vợ chồng chủ hiệu bất ngờ cãi lộn, tôi với giáo sư Chi ngồi trước màn ảnh truyền hình, trên tấm chiếu trải giữa gian buồng vừa làm phòng khách, quán ăn, phòng ngủ. Chủ quán tát vợ toé lửa.

-   Các anh cứ dùng vô tư!

 

Ông chủ đã dẫn tôi đi xem chó, quay lại cười.

-   Thêm bia nhé. Chủ hiệu Cầy Tơ Bốc Lửa hỏi.

 

Tôi nhìn ông ngỡ ngàng, chị vợ khóc trong góc. Giáo sư Chi gắp cho tôi miếng chả chó tím lợt của Vũ Bằng ngày xưa thơm ngào ngạt. Tôi nhậu thịt chó suốt đêm, 5 giờ sáng tôi bước chân ra phố Kim Mã, hút 300 đồng thuốc lào ở chiếc điếu cầy của hàng nước vối đen đúa. Cả triệu người đã đặt môi vào ống điếu. Tôi nhìn vành điếu đen quánh, bẩn thỉu, xẩy mẻ, lở như chứng ung thư trên da thịt K đang hoành hành. Tôi do dự rồi ghé môi để cùng hút với đất nước thứ khói sấy bằng nắng gió quê nhà, cùng chia tiếng rít thiết tha đứt hơi của đất nước khi ban mai đang ửng hồng trên bãi xe khách của phố Kim Mã vừa thức giấc. Người tôi tê đi trong làn khói sớm. Người tôi tê đi khi nghe gã tóc vàng nạt:

-  No need, get away!

-  Oát xu, oát xu!

-  I don’t need you to wash my shoes, get away the fucking kids!

 

Bãi Cháy dấy động. Ðàn ruồi bay tản. Nắng đổ lửa. Ðám trẻ đánh giầy bu lấy gã da trắng đang ngồi ghế bố, đứa nắm tay, đứa sờ chân, đứa giằng lấy giầy, ngay trên bãi biển 120 năm trước Francis Garnier và thủy binh Tây đổ bộ.

-   Fucking kids, let me be!

-   Oát xu, oát xu!

-   Don’t take off my shoes, fuck you!

-   Oát xu, oát xu!

-   No need, sons of the bitch!

 

Gã da trắng sừng cồ, như đám xin đểu đã sừng cồ chiều hôm trước, cuối cùng bất lực chìa chân cho lũ trẻ đánh giầy. Tôi dẫm chân lên lớp cát vàng mịn của đất Bắc. Lớp cát vàng óng, mịn tơ, thoai thoải duỗi dài. Cát của Sầm Sơn, Ðồ Sơn của Nhất Linh có êm như cát ở đây? Ðất Bắc của hùng thiêng sông núi, của Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo, Trần Quốc Toản, Ngô Thời Nhiệm, đất Bắc của chiến công oanh liệt chống ngoại xâm, Bạch Ðằng, Chi Lăng, Ðiện Biên Phủ, tôi đứng trước thắng cảnh kỳ vĩ của đất nước, nơi con rồng thiêng đã hiến thân tìm cái chết chỗ này, đập đuôi trầm mình trong sóng nước Âu Lạc, những mảnh đuôi vỡ toé làm trăm ngàn hòn nhô lên như chứng tích của một thời thiêng mà cả đất nước kiêu hãnh. Xác rồng thu hút du khách, đem đến lợi nhuận. Nhưng tổ quốc không biết, ở Phang Ngà Thái Lan cũng nhiều cù lao như vậy, cảnh vật in hệt, không ăn cắp, không đánh giầy, không bãi giữ xe vì không ai lấy, người Thái không bu bám Tây Phương, và du khách đông gấp vạn. Tôi đã đến Phù Két, Phang Ngà, Ao Nàng, Trang, Sa Mùi, Kra Bì, đã sửng sốt trước lịch sự của dân tộc nổi tiếng hải tặc này. Sửng sốt trước giá vé duy nhất Thái Lan, Việt Nam, Tây, Mỹ. Sửng sốt trước cô gái Thái trẻ xách chổi đi quét bãi biển sau mỗi khi khách rời ghế bố. Sửng sốt trước giá cua chỉ 38.000 đồng một con ăn ở xe hải sản tươi sống dành riêng du khách. Sửng sốt vì đĩ điếm tràn lan công khai nhảy múa trần truồng. Sửng sốt vì ở Thái cũng có cà pháo, mắm tôm và phở cắt bằng bánh cuốn trụng rau muống. Sửng sốt khi nghe bé gái nhỏ oằn người gánh thúng đu đủ chào mời bằng tiếng Việt.

-   Chú người Việt Nam hả? Chú ăn giùm con đỉa tầm sụm. Bố mẹ con từ Vinh qua đây sống mấy năm rồi, con đi bán ở Chạ Long nhớ nhà quá.

-   Em tên gì?

-   Dạ, con tên Bỉm. Chú ăn giúp con đĩa tầm sụm.

 

Tôi nhìn cô bé xót ruột. Tôi muốn nói tôi chỉ hơn tuổi em ngày xưa khi phải rời tổ quốc, vì người Bắc không cho phép người Nam sinh sống, triệt tiêu hết tất cả, và tôi phải tha phương cầu thực như em. Nhưng sao em sinh quán Vinh, cũng người Bắc mà em phải tha phương cầu thực bây giờ? 15 năm rồi mà? Bây giờ tôi hiểu vì sao mỗi khi người Thái hỏi Where are you from? Tôi trả lời From Viet Nam, không ai chào mời tôi nữa. Tôi ăn đĩa gỏi đu đủ ở Chalong Bay chiều đó, đĩa gỏi mặn như nước mắt, còn mang tất cả đậm đà của quê hương, ba khía, mắm tôm, rau muống và đu đủ. Bỉm bây giờ trôi giạt nơi nào? Cô bé chỉ có tương lai đĩ điếm của Patong town chờ đợi trước mắt.

-   No dollars, no money!

 

Gã tóc vàng tươi tốt đứng phắt dậy, đám trẻ dãn ra.

-  I don’t want you to wash my shoes. You do it by yourself, so I don’t pay. Get off!

-   Công an, kêu công an, nó giật tiền!

 

Bãi Cháy vỡ ầm trong tiếng động, ruồi bay tán loạn, mấy bà cho thuê ghế xúm vào chen chúc, bạn hàng rong ở đâu xô đẩy bu bám, lũ trẻ vẫn trì kéo, giật lôi, gã da trắng vùng vẫy. Fuck you, fuck you, tiếng Anh nghèo vậy sao? Tôi đứng nhìn, muốn can thiệp, muốn chưởi vào mặt thằng da trắng ăn quỵt, tôi đã trông thấy chúng nghèo đói thế nào ăn xin, ăn mày dưới hầm métro, subway, tôi đã trông thấy đám da trắng bần tiện mất dạy lỗ mảng trên đất nước của chính họ, được tôn sùng Thượng Ðế ở đây, tôi đã biết trị giá của phục vụ Âu Châu mắc gấp trăm lần trên bãi cát này. Một cuốc đánh giày 5.000 đồng chưa bằng 40 cents. Nhưng tôi đứng đó, không cử động, tôi tự bào chữa mình yếu tiếng Anh, nhưng tự trong thâm tâm tôi biết, tôi e ngại gã da trắng cao gấp rưỡi, nở nang, khoẻ mạnh, lực lưỡng phơi trần mình cuồn cuộn bắp thịt trên mảnh đất Rồng.

-   Chú công an xử lý, chúng cháu đánh giầy nó không trả tiền!

-   Tránh ra để làm việc. Ðã bảo tránh ra! Anh công an nạt tất cả mọi người.

-   They took off my money, I don’t pay. They are the thieves. No money, robbers!

-   Giải tán, giải tán!

 

Công an xua tay đuổi tất cả. Anh công an không làm việc hay anh cũng e ngại như tôi đã e ngại trên mảnh đất Rồng? Hay anh cũng yếu sinh ngữ? Gã da trắng đã ngồi lại ghế, thong dong đọc báo, duỗi đôi giày đánh cire bóng, trang nhất của tờ Wall Street mở rộng loan tin chỉ số kinh tế lên xuống, Liên Hiệp Quốc thanh sát Irak, khủng hoảng Nam Hàn, Nam Dương, không một dòng nào nhắc đến Việt Nam.

Xem tiếp phần 2

Trần Vũ
Số lần đọc: 3059
Ngày đăng: 25.02.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tội ác truyền đời - Phùng Phương Quý
Cổng trường chải mái tóc xưa - Võ Quê
Phương Nam du ký - Vũ Ngọc Tiến
Những mảnh đời trôi dạt - Trần Thôi
Bài ca giữ rừng - Đỗ Trọng Phụng
Đảo không xa - Nguyễn Thuỵ Nhã
Bát xát cuối mùa mận chín - Phùng Phương Quý
Sẻ chia cho những phận người bất hạnh - Nguyễn Nguyên An
Ai về Quảng Trị Đông Hà…35 năm sau Mùa Hè Đỏ Lửa - Trần Kiêm Ðoàn
Vũ Hữu Định, rượu thơ trần thế - Trần Tuấn*