Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
793
116.658.908
 
Paulus Huỳnh Tịnh Của Biên Soạn Pho Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị Ðầu Tiên c ủa Việt Nam (1)
Trần Văn Cảnh

1.   PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA VÀ NHỮNG ÐÓNG GÓP VĂN HÓA CỦA ÔNG

 

Huỳnh Tịnh Của là nguời công giáo, có tên thánh là Paulus, nên thuờng đuợc gọi là Paulus Của, hay Huỳnh Tịnh Paulus Của, hay Paulus Huỳnh tịnh Của. Ông sinh năm 1834 tại làng Phuớc Thọ, Huyện Ðất Ðỏ, tỉnh Bà Rịa, nay là Phuớc Tuy, Nam phần, và mất năm 1907. Ông có tên hiệu là Tịnh Trai.

 

Ðuợc gởi đi du học truờng công giáo ở Pulo-Pénang, Mã Lai, Paulus Huỳnh Tịnh Của tinh thông cả Hán Văn và Pháp Văn. Năm 1861, ông đuợc bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Soái phủ Sài Gòn. Sau này ông thay Trương Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo quốc ngử Gia Ðịnh Báo trong một thời gian ngắn. Ngoài công việc của một viên chức chính phủ, ông còn luu tâm đến quốc văn, quốc ngữ.

 

Ðuợc tiếp nhận ảnh huởng văn hoá Âu tây, Paulus Huỳnh Tịnh Của cùng chia sẻ một quan niệm với Trương Vĩnh Ký, theo đó, xã hội Việt Nam có khả năng và cần vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật Âu tây về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hoá Ðông phương cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập.

 

Ông là một trong số ít nguời tây học đầu tiên truớc tác bằng chữ quốc ngữ, để truyền bá học thuật Tây phương, mà không quên phổ biến văn hoá Ðông phương cổ truyền. Sau và cùng với Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của là nguời có công xây đắp rất nhiều cho nền văn chương quốc ngữ trong những buớc đầu, nhất là ở Nam Kỳ.

 

Huỳnh Tịnh Của sáng tác khá nhiều. Theo ông CORDIER (2) thì Paulus Huỳnh Tịnh Của sáng tác cả thảy khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp chúng thành hai loại : loại biên khảo và loại phiên âm.

 

Loại biên khảo có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác các tác phẩm đời truớc. Ðó là những cuốn sau đây :

Chuyện giải buồn, 2 tập, 112 truyện, in năm 1880 và 1885

Maximes et proverbes, in năm 1882

Gia lễ, in năm 1886

Sách bác học so giải, in năm 1887

Sách quan chế, in năm 1888

Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, 2 cuốn, in năm 1895 và 1896

Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn, in năm 1897

Câu hát góp, in năm 1904.

Ca trù thể cách, in năm 1907

 

Loại phiên âm, chuyển sang quốc ngữ những chuyện nôm xưa của các tác gia đời truớc. Ðó là những cuốn sau đây :

1. Quan âm diễn ca, in năm 1903

2. Trần Sanh diễn ca, in năm 1905

3. Chiêu Quân cống Hồ truyện, in năm 1906

4. Bạch Viên, Tôn Khúc truyện, in năm 1906

5. Văn Doanh diễn ca, in năm 1906

6. Thoại Khanh, Châu Tuấn truyện, in năm 1906

7. Thơ mẹ dạy con, in năm 1907

8. Tống Tử Vuu truyện, in năm 1907

 

Theo Phạm Thế Ngũ (3) thì đa số các sách trên đều thất truyền cả, chỉ còn tìm lại đuợc 3 cuốn là Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, Chuyện giải buồn và Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.

 

Tại Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Balê, chúng ta có được 2 tác phẩm là Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị và Chuyện giải buồn.

 

Trong tất cả những tác phẩm ấy, tác phẩm đồ sộ nhất và qua đó Paulus Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng quốc văn mới là pho Ðại Nam Quốc Âm tự Vị. Ðây là pho Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị đầu tiên của Việt Nam , do người Việt Nam biên soạn. Việc làm này của Paulus Huỳnh Tịnh Của thực là quá sớm, quá táo bạo. Hơn ba chục năm sau ta mới thấy một hội văn học ngoài Bắc là hội Khai Trí tiến đức nghĩ đến tiếp tục công việc. Và cho tới nay kể cả về tự điển Việt Nam chúng ta vẫn chỉ có hai cuốn ấy thôi. (4)

2. PHO ÐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ ÐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

Sau đây, để trình bày về pho Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, tôi xin đuợc giới thiệu sơ luợc về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, trích đọc vài chữ trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị và ghi lại vài suy nghĩ vắn tắt về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị.

 

a.  Giới thiệu sơ luợc về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị

 

Truớc nhất, về giới hạn việc làm của mình, Paulus Huỳnh Tịnh Của chủ trương làm một cuốn tự vị vắn gọn, chỉ kê liệt các tiếng và định nghĩa một cách vắn tắt, chứ không có chú giải, dẫn điển, dẫn tích. Ông viết : “Có kẻ hỏi tự điển, tự vị khác nhau thế nào ? Sao sách ta làm kêu là tự vị mà không gọi là tự điển ? .... Tự điển, tự vị khác nhau có một sự rộng hẹp. Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải có kinh truyện làm thầy ; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển tích gì.” (5)

 

Còn như nội dung của cuốn tự vị, thì ngay từ trang bìa, Paulus Huỳnh Tịnh Của đã ghi rõ ngay trong tên sách rằng : « Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị » tham dụng chữ nho có giải nghĩa, có dẫn chứng, muợn 24 chữ cái phương tây làm chữ bộ.” (6). Cuốn sách gồm hai tập, tập 1, từ vần A đến hết vần L, in vào năm 1895 ; tập 2, từ vần M đến hết vần X, in vào năm 1896.

 

Theo ấn bản mới nhất, do Nhà Xuất Bản Trẻ in vào năm 1998, cả hai tập là 1210 trang, tập 1 gồm 608 trang, tập 2 gồm 602 trang.

 

Ðến việc thực hiện cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, Paulus Huỳnh Tịnh Của đã đuợc một nguời Pháp tên là A. LANDES giúp đỡ rất nhiều về ý kiến cũng như phương pháp. Ông này là một nhà Ðông phương học, có học chữ nho và từng làm Giám đốc Truờng Thông ngôn ở Sài Gòn từ năm 1885. Cũng chính A. LANDES là nguời, vào năm 1895, đang làm Ðổng lý Văn phòng cho Toàn Quyền LANESSAN, đã khuyên Paulus Huỳnh Tịnh Của xin Thống Ðốc Nam Kỳ xuất quỹ để xuất bản bộ tự vị này. Nhung công việc chính, vẫn chỉ do Paulus Huỳnh Tịnh Của trì chí thực hiện, như lời ông viết rằng “nhân khi rỗi rảnh, ta cứ việc làm theo tiếng ta, chữ ta, viết đi chép lại, ngày đêm khó nhọc, hơn bốn năm trời mới thành công việc.” (7).

 

b. Trích đọc vài chữ trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị

 

Bây giờ xin giới thiệu hai chữ đã đuợc Paulus Huỳnh Tịnh Của giải nghĩa trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, chữ ĂN và chữ THẬT (THIỆT, THỰC).

 

Chữ ĂN, (8) chính là một chữ nôm chứ không phải là chữ hán, cho nên bên cạnh cách viết chữ quốc ngữ ĂN, về phía phải có chua chữ “n” nghia là chữ nôm và về phiá trái có vẽ hình chữ nôm.

Nghĩa chữ đơn là “Nhai nuốt, huởng dùng”

 

Ðuợc trình bày từ giữa trang 9 đến trang 12, qua hai cột sách mỗi trang, tất cả là năm cột sách, chữ ĂN, là chữ đơn và chữ chính, đã đuợc giải nghĩa qua 125 chữ ghép. Tất cả các chữ ghép này đều có thể luợm lặt từ ba nguồn gốc chính :

 

Những chữ luợm lặt từ các áng văn nôm nổi tiếng như truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên, ... như chữ “ăn dứt,...”

Những chữ luợm lặt từ ca dao tục ngữ như chữ “ăn ra, ăn hồ,...”

Những chữ luợm lặt từ những từ ngữ thông dụng hàng ngày, như chữ “ăn mừng, ăn lời, ăn tết, ăn chay,...”

 

Chữ THẬT (9) vì là gốc chữ hán, nên về phiá phải có chua chữ “c”. Nghiã chữ đơn là “(thiệt) chắc, hột”, nó đuợc giải nghĩa qua 34 chữ ghép.

Chữ THIỆT (10) đuợc trình bày qua hai chữ khác nhau :

 

Chữ THIỆT, gốc hán nôm, về phiá phải có chua chữ “c n”, nghĩa chữ đơn là “Luỡi ; dùng nôm thì là thâm tổn, bị lụy, thua sút, mất phần nhờ”, đuợc giải nghĩa qua 18 chữ ghép.

Chữ THIỆT thứ hai, gốc chữ hán, về phiá phải có chua chữ “c”, nghia chữ đơn là “’(Thật) chắc”, đuợc giải nghĩa qua 16 chữ ghép.

 

Chữ THỰC (11) đuợc trình bày qua ba chữ khác nhau :

Chữ THỰC, gốc chữ hán, về phiá phải có chua chữ “c”, nghia chữ đơn là “Ăn”, đuợc giải nghĩa qua 21 chữ ghép.

Chữ THỰC thứ hai, cũng gốc chữ hán, về phiá phải cũng có chua chữ “c”, nghĩa chữ đơn là “Trồng, vun trồng” đuợc giải nghĩa qua 1 chữ ghép, chữ “Hóa thực”.

Chữ THỰC thứ ba, cũng gốc chữ hán, về phiá phải cũng có chua chữ “c”, nghiã chữ đơn là “Ăn khuyết” đuợc giải nghĩa qua hai chữ ghép, là “Nhựt thực, Nguyệt thực”.

 

c. Vài suy nghĩ vắn tắt về cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị.

 

Qua sự trích đọc vài chữ trong cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị như vậy, ta thấy cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của có những đặc điểm sau đây :

 

1. Ngữ vựng phong phú. Qua tự ĂN, với 125 chữ ghép khác n

hau, cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của chứng tỏ một công lao tìm tòi và ghi chú công phu, và kho ngữ vựng nó chứa đựng thành ra rất phong phú.

Nó bao gồm chẳng những các từ ngữ văn chương, chung cho cả ba miền đất nuớc, rút ra từ các áng văn chương bác học và bình dân.

Mà nó còn ghi nhận ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là những tiếng có màu sắc địa phương đuợc xử dụng nhiều ở miền Nam và Nam Trung.

 

2. Cách giảng giải rõ rệt. Nó không chỉ vắn tắt giảng nghĩa, mà đôi khi còn trình bày nguồn gốc của chữ để cho nghĩa đuợc rõ hon, bằng cách trích thêm những câu tục ngữ, ca dao, những câu thơ Kiều, Lục Vân Tiên, ...

 

3. Phân biệt chữ Hán Nôm. Sành cả chữ Pháp, chữ Hán lẫn chữ Nôm, Paulus Huỳnh Tịnh Của đã không dùng cách xếp loại theo tự loại, nhưng đã biết lấy sáng kiến để phân biệt các tự theo hai gốc văn tự là Hán Việt và Nôm. Sáng kiến này rất hợp với ngôn ngữ Viêt Nam. Nó giúp cho độc giả hiểu rõ và dùng đúng các từ hán việt đã và đang có. Nó cũng giúp cho các nhà ngữ học sáng tạo thêm những từ mới theo yêu cầu của công nghiệp và giáo dục của thế giới hiện đại.

 

4. Phương pháp khoa học. Tra Ðai Nam Quốc Âm Tự Vị kỹ, nguời ta thấy tác giả có phương pháp làm việc rất là khoa học. Một đàng ông biết tuân thủ nguyên tắc ngôn ngữ thống nhất, một đàng ông cũng biết thích nghi áp dụng nguyên tắc biến hóa thực tiễn của ngôn ngữ.

 

Tuân thủ nguyên tắc ngôn ngữ thống nhất, Paulus Huỳnh Tịnh Của biết lựa chọn các mục từ của mình. Trong những cặp từ đối xứng, như “bậc” và “bực”, “bệnh” và “bịnh”, “mầng” và “mừng”, tự vị chỉ ghi và giảng những mục từ chính “bậc”, “bệnh”, “mầng”. Còn các mục từ đuợc coi là phụ, là những cách phát âm riêng của địa phương, thì đều không đuợc giải nghĩa, mà được gởi đi coi mục từ chính. Vì vậy mà từ “bực” được gởi đi coi chữ “bậc”, “bịnh” được gởi đi coi chữ “bệnh”, “mừng” đuợc gởi đi coi chữ “mầng”.

 

Áp dụng nguyên tắc biến hoá thực tiễn của ngôn ngữ, Paulus Huỳnh Tịnh Của biết ghi nhận những hình thức biến chuyển trong quá trình phát triển rất đa dạng của ngôn ngữ do các điều kiện không gian và thời gian lịch sử. Có lẽ đó là lý do khiến các từ “chánh” và “chính”, “nhất” và “nhứt”, “phúc” và “phuớc”, “thật”, “thiệt” và “thực”, mỗi từ đều đuợc ghi là một mục từ và giảng giải riêng.

 

LỜI KẾT

 

Ba nền văn học đã lần luợt xuất hiện tại Việt Nam : Văn học chữ hán, từ thế kỷ X đến XX, văn học chữ nôm, từ thế kỷ XIII đến XX, và văn học chữ quốc ngữ, từ thế kỷ XIX cho đến ngày nay, thành độc tôn. Văn học chữ quốc ngữ đã đuợc văn hoá công giáo giúp sức nhiều hơn cả.

 

Chữ quốc ngữ đã đuợc các linh mục Âu châu sáng chế ra với sự cộng tác tích cực của các giáo hữu Việt Nam. Ba nguời đuợc biết đến nhiều hơn cả, trong những buớc dầu của văn học quốc ngữ là cố Alexandre de RHODES (1593-1660), ông Pétrus TRƯƠNG VĨNH KÝ (1837-1897) và ông Paulus HUỲNH TỊNH CỦA (1834-1907).

 

Nhờ văn học quốc ngữ, tâm trạng văn học chữ hán với mặc cảm tự ty “Thuật nhi bất trác” truớc uy thế chữ nghĩa của Thánh Hiền đã dần dà lui vào dĩ vãng. Văn học chữ quốc ngữ phát triển thêm tinh thần độc lập quốc gia và khuyến khích mạnh mẽ việc sáng tác văn, thơ, truyện, ... của văn học chữ nôm.

 

Khởi đầu, văn học chữ quốc ngữ đã đuợc phổ biến qua báo chí, “Gia định báo” (1865), ... “Nam phong tạp chí” (1917), ...Văn học chữ quốc ngữ đã xông xáo vào mọi lãnh vực : văn hóa, chính trị, khoa học, tôn giáo, xã hội, kinh tế... quốc nội, quốc ngoại, dân tộc, quốc gia, thế giới... đã vận dụng hết các thể loại : dịch thuật, biên khảo, sáng tác...và đã sáng tạo ra một nền văn xuôi mới, một nền thơ mới. Văn học chữ quốc ngữ đã và đang phát triển trên cả nuớc cũng như khắp năm châu lục địa, có một tính chất thống nhất dẫu đuợc xử dụng trong những hoàn cảnh rất khác biệt, theo đa văn hoá, khoa học, tân tiến, thế giới, để bảo trì và phát huy văn hoá bốn ngàn năm văn hiến.

Mời tôi nói truyện về PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA, nhân năm sinh nhật thứ 169 của ông, Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Paris phải chăng muốn chứng tỏ rằng mình luôn có những hoạt động văn hoá tiên phong, vững mạnh, tích cực và sáng tạo, luôn ý thức vai trò và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng văn hoá dân tộc.

Mời Cộng Ðoàn xem lại công trình vĩ đại mà PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA đã đóng góp cho Văn Hoá và Văn Học Việt Nam qua pho ÐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ, tôi nhớ lại khẩu hiệu “Thụ nhân” mà Giáo Hội Công Giáo đã đặt cho Viện Ðại Học Ðà Lạt. Nhớ lại ba vị viện truởng Trần Văn Thiện, Nguyễn Văn Lập, Lê Văn Lý. Nhớ lại những bài diễn thuyết với một giọng pháp văn tuyệt vời của Ðức cha Thiện. Nhớ lại việc tổ chức giáo dục tài ba của cha Nguyễn Văn Lập, một linh mục thiết tha với việc đao tạo thanh thiếu niên, một bậc thầy trí dũng, nhân ái và rộng luợng. Nhớ lại sự nghiêm trang, nho nhã mà uyên thâm từ bi của cha Lê Văn Lý, linh mục tiến sỹ ngữ học đầu tiên của Việt Nam, với luận án “Le parler vietnamien, sa structure phonologique et morphologique fonctionnelle” (1948), với cuốn sách “Le parler viêtnamien : syntaxe” (1998), qua dó cha đã “SƠ THẢO NGỮ PHÁP VIỆT NAM” (1968).

 

Ghi chú :

 

(1). Bài diễn văn đọc trong Ngày Văn Hóa Việt Nam, do Nhóm Thư Viện Giáo Xứ tổ chức tại Giáo Xứ Việt Nam Paris, ngày 04/05/2003

(2). CORDIER : Morceaux choisis d’Auteurs annamites ; Hanoi : 1932

(3). PHAM THẾ NGŨ : Việt Nam Văn Học sử giản uớc tân biên, tập 3, Văn học hiện đại 1862-1945 ; Cơ Sở xuất bản Ðại Nam : Ất Tỵ, ttr. 80- 85

(4). PHAM THẾ NGŨ, sđd, tr. 84

(5). HUỲNH TỊNH CỦA : Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ; Sài Gòn : Nhà xuất bản Trẻ ; 1998, trang bìa sau

(6). HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, trang tựa đầu sách

(7). HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, lời giới thiệu của Bùi Ðức Tịnh

(8). HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr. 9-12

(9). HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr. 992-993

(10). HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr. 1010-1011

(11). HUỲNH TỊNH CỦA, sđd, ttr.1036-1037

Trần Văn Cảnh
Số lần đọc: 2792
Ngày đăng: 23.03.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Lang thang chữ nghĩa - Phan Huy Đường
Lang thang chữ nghĩa -12.09 - Phan Huy Đường
Lang thang chữ nghĩa- 6. - Phan Huy Đường
Lang thang chữ nghĩa 5 - Phan Huy Đường
Lang thang chữ nghĩa -4 - Phan Huy Đường
Danh xưng nào chuẩn ? - Thẩm Hồng Thụy
Về chữ Huý trong Thác Bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam - Nguyễn Văn Hoa
Giá trị biểu cảm của từ “ai” trong thơ Tản Đà - Nguyễn Hoàn
Đại Danh Từ Tiếng Việt - V. U Nguyen
Nói về Mắt, Nhãn, Mục - Khổng Ðức