Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
832
116.663.843
 
Thắp sáng triền non (Bình bài thơ Không đề của nhà thơ Chu Thị Thơm)
Lâm Xuân Vi

 

 

Không đề

 

Cải xanh

                 đã phải về trời

Cải ngồng ở lại

                     trên đời bấy nay

Nghẹn ngào

                   răm chút vị cay

Mặc mưa xối xả

                   kiếp này nữa thôi

Đắng lòng một chút

                               người ơi

Oằn trong nắng gió

                             một đời

                                           đớn đau

Về trời

                cải biếc

                             tìm đâu

Chút vàng

                  nhen lửa

                                  mai sau có còn

Để xin thắp sáng triền non?

 

Chu Thị Thơm

 

Lời bình

 

       Trong kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, giàu giá trị nhân văn, tổng kết đúc rút muôn mặt cuộc sống tự ngàn đời, được truyền tụng trong dân gian nhằm hướng con người tới chân thiện mỹ.

 

       Bài thơ: Không đề của nhà thơ Chu Thị Thơm đã xử dụng câu ca dao:

 

       Gió đưa hoa cải về trời/ Rau răm ở lại chịu lời đắng cay, thấm đẫm chiết lý nhân sinh như một luận đề để làm sâu sắc thấm thía thêm cho một luận đề khác.

 

       Ai cũng hiểu rămcải chỉ là cái cớ, là hình tượng văn học để luận về những vấn đề thiết cốt của con người, vì con người

 

       Rau răm ở lại chịu mọi đắng cay của cõi trần thế, cải về trời, lên thiên đàng - chốn  “bồng lai” để hưởng lạc vinh hoa phú quý là thuận đề. Nhà thơ đã dùng “pháp thuật” biến ảo “cao tay” để thử định đoạt, phân chia lại như một phép phản đề:

 

       Cải xanh đã phải về trời

       Cải ngồng ở lại trên đời bấy nay.

 

       Cái tứ thâm sâu của bài thơ bắt đầu hé lộ. Sự sắp đặt cho một “trật tự” mới, đã làm răm xúc động đến nghẹn ngào. Bởi, cải đã không vì vinh thân mà ích kỷ, vô cảm, bỏ mặc răm, đã ở lại để cùng răm sẻ chia vợi bớt nỗi đắng cay tủi cực. Cải tự nguyện chấp nhận vâng ý nhà thơ, làm răm xúc động đến rưng rưng, chắc nghĩ cải đã thấu được lòng mình, và rồi hy vọng một cơ hội thay đổi kiếp phận mình cũng sẽ đến.

 

Nghẹn ngào, răm chút vị cay

Mặc mưa xối xả, kiếp này nữa thôi

 

       Khi thơ được ngoặt sang hướng này, ta càng thấy sâu sắc, thấm thía hơn cái ý thức gắn bó của cộng đồng, không chỉ đơn phía răm chịu đựng hy sinh cho bạn, mà nặng tình thương cảm sẻ chia, vì nhau, vì một lẽ thơm thảo, công bằng.

 

       Chắc có bạn đọc sẽ hỏi, sao nhà thơ chủ trương đề cao sự tỉnh thức ăn năn, chấp nhận hy sinh của cải, mà chỉ để cải ngồng ở lại? Vâng, theo tôi, đó lại là quyết định khôn ngoan, đầy bất ngờ được nữ sỹ đẩy thơ tới tầng nấc khác, nhắm tới lý giải một đạo lý nhân bản khác.

 

       Cải xanh đã phải về trời, bị bắt về trời, chứ thực lòng nó đâu có muốn “miếng xương phần mẹ…”( ca dao) để rồi phải xa tổ tông họ hàng nhà cải, đâu có bạc bẽo với thế hệ cha anh, để (cải ngồng) phải ở lại gánh chịu mọi khổ đau? Cái nghĩa vun đắp nâng nui dành cho thế hệ sau đầy nhân bản: “Bà ru mẹ…mẹ

ru con...” trong bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của Nguyễn Duy, lại được Chu Thị Thơm tái hiện điệu nghệ bằng một cách nói khác trong thi cảnh thật xúc động thuyết phục này. Điều quan trọng hơn, về trời cải xanh mới làm nhân chứng, vật chứng giúp được nhà thơ thực hiện phép đối sánh, phản biện, làm bổ đề bổ trợ sáng tỏ cho luận đề - chủ đích hướng tới của bài thơ:

 

Về trời cải biếc tìm đâu

Chút vàng nhen lửa mai sau có còn

Để xin thắp sáng  triền non ?

 

       Về trời - chốn tiên cảnh, cải biếc được gì thì chưa rõ, nhưng rễ không còn bám vào đất, để được đất nuôi dưỡng bằng thứ khí chất mà tạo hoá chỉ dành riêng, biệt đãi cho mỗi loài cây. Như thế làm sao còn có được chút vàng mà nhen lửa thắp sáng, cái màu vàng đặc trưng riêng có của hoa cải. Vậy là sự chấp nhận ở lại, chấp nhận hy sinh của “cải ngồng” lại làm nên điều kỳ diệu, chứ đâu có bất hạnh đau buồn, bởi tạo hoá công bằng phù trì cho cái đẹp chứ không nỡ phụ lòng.

 

       Ở mỗi độ xuân về, ai đã có dịp đến với cao nguyên đá Đồng Văn, hay các triền non vùng cao khác, hẳn sẽ bị thu hút quyến rũ bởi một màu vàng, vâng đó chính là màu hoa cải làm nên bức tranh xuân tuyệt mỹ. Thử hỏi, nếu sườn non vùng cao thiếu đi cái màu huyền diệu sinh động thi vị ấy, thì mùa xuân sẽ tẻ nhạt, heo hút thiếu sức hấp dẫn biết nhường nào? Hoá ra chân giá trị của muôn loài cũng như con người đều nằm ở chỗ: Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với nuí sông (Nguyễn Công Trứ). Hạnh phúc hay khổ đau là phụ thuộc ở việc sống và làm gì để mang lại giá trị lợi ích cho sông núi, con người và cộng đồng, chứ đâu phải ở trần thế hay lên thiên đường.

 

       Bài thơ Không đề với cái tứ khá lạ, bất ngờ và thi pháp “phản biện”, giản dị, sáng tạo, ca dao phổ ca dao, nên sẽ thu hút, kích thích sự khám phá tìm tòi của nhiều đối tương bạn đọc.

       Nhà thơ Chu Thị Thơm đã thuyết phục được bạn đọc bởi sự thấm nhuần triết lý sống muôn đời “mình vì mọi người”.

 

       Cám ơn nhà thơ đã gợi mở lối tiếp cận, khai thác độc đáo để khẳng định sức lan toả và sự trường tồn của kho tàng ca dao Việt Nam vì khát vọng sống cao cả của con người.

 

  Ninh Bình, ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11- 2012

                                 

 

 

Lâm Xuân Vi
Số lần đọc: 1989
Ngày đăng: 14.01.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
NGUYỄN DU TIẾNG LÒNG THIÊN THU - Tâm Nhiên
THẾ GIỚI THI CA TƯ TƯỞNG BÙI GIÁNG - Tâm Nhiên
Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc - Nguyễn Đình Chúc
HOÀI KHANH SẦU XANH VƯỜN CÔ LIÊU - Tâm Nhiên
Mùa thu trong thơ Bích Khê - Lê Huỳnh Lâm
Đôi Dòng Thơ Nhạc Kỷ Niệm Sài Gòn Khiến Ta Tìm Đến Những Di Tích Cổ - Trần Văn Nam
Âu Thị Phục An Và Những Sợi Tơ Vàng - Đặng Kim Côn
Huỳnh Kim Bửu và Tiếng hạc bay trên dòng sông Côn. - Trương Văn Dân
Đỗ Thành Đồng Với Túi Ba Gang Đầy Thơ Và Máu - Hoàng Thụy Anh
Họng Đêm Và Những Câu Thơ Bung Gai Giữa Ngày Không Nắng - Hoàng Thụy Anh