Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.394 tác phẩm
2.747 tác giả
710
116.727.914
 
Những sai lầm ngộ nhận về cố triết gia Kim Định
Lê Việt Thường

Những sai lầm ngộ nhận về cố triết gia Kim Định

 

Chúng ta thường nghe câu :"Thiên Tài thường Cô Ðơn". Lý do là vì THIÊN TÀI (gồm những nhà TƯ TƯỞNG LỚN, những người có sức SÁNG TẠO PHONG PHÚ trong nhiều lãnh vực khác nhau) thường ÐI TRƯỚC người đương thời hàng năm, hàng chục, hàng trăm năm..Hậu quả là thường xẩy ra những điều SAI LẦM, NGỘ NHẬN xoay quanh cuộc đời, tác phẩm của ho.Và số lượng của những điều Sai Lầm, Ngộ Nhận có lẽ có TỶ LỆ THUẬN với sự LỚN LAO của Thiên Tài. Hiện tượng trên bắt nguồn từ sự Hiểu Lầm, Ngộ Nhận THỰC SỰ, nhưng cùng có thể đến từ sự ÁC Ý do tính GANH TỴ, ÐỐ KỴ của những Ðồng Nghiệp hay của những người khác, hoặc do tính ÐIÊU NGOA, GIAN DỐI của những kẻ theo "Cơ Hội Chủ Nghĩa" định LỢI DỤNG Thiên Tài cho những mưu đồ DANH LỢI không được chính đáng của họ!

Cố Triết Gia KIM ÐỊNH không thoát khỏi THÔNG LỆ trên!

 

A) TÍNH KHOA HỌC

Những điều chúng ta thường nghe liên quan đến tính KHOA HỌC của tác phẩm của Cố Triết Gia.

Tác phẩm của Cố Triết Gia có thiếu tính KHOA HỌC như điều đồn đãi hay không?

Và tính KHOA HỌC là gì ? Từ ngữ này thường khiến chúng ta liên tưởng đến lãnh vực Khoa Học VẬT LÝ với tính KHÁCH QUAN trong công việc QUAN SÁT, đặt GIẢ THUYẾT, ÐỊNH ÐỀ và THÍ NGHIỆM để kiểm soát tính TRUNG THỰC của các dự kiện được quan sát với ÐỊNH ÐỀ.

Và tính KHÁCH QUAN thường được hiểu là Nỗ Lực của đương sự nhằm QUAN SÁT Sự Kiện, Biến Cố như nó xảy ra, cũng như việc tránh đem THÀNH KIẾN, Ý Kiến CHỦ QUAN của mình vào công việc.

 

Thật ra, đó chỉ là Thái Ðộ của một nhà Khoa Học LÝ TƯỞNG! Nhưng với các Khoa Học VẬT LÝ, nhờ đặc tính CỤ THỂ, HỮU HÌNH gắn liền với các khoa này, nên người ta cũng đạt được một số Kết Quả, Dữ Kiện có BẰNG CHỨNG, KIỂM SOÁT được.

 

Nhưng ngay ở lãnh vực Khoa Học VẬT LÝ, tiêu chuẩn KHÁCH QUAN đã bị đặt thành vấn đề với khoa LƯỢNG TỬ. Lý do là ở bình diện HẠ NGUYÊN TỬ, sự vật được quan sát thay đổi theo vị trị và nhãn quan tức theo CHỦ QUAN của người quan sát, do đó tiêu chuẩn KHÁCH QUAN thông thường đã bị ÐẶT THÀNH VẤN ÐỀ ngay ở địa hạt VẬT LÝ LƯỢNG TỬ.

Huống gì là ở địa hạt Khoa Học NHÂN VĂN!

 

Do đó, tiêu chuẩn TỐI HẬU của tính HIỆU LỰC (Validity) của GIẢ THUYẾT KHOA HỌC đối với Công Ðồng các Học Giả QUỐC TẾ ngày nay là tính KIÊN ÐỊNH, PHÙ HỢP ( Consistency) của Giả Thuyết Khoa Học nêu trên với tất cả các KHIÁ CẠNH KHÁC của cái KHUNG KHOA HỌC( Scientific Method, Encarta 1995).

 

Tiêu chuẩn KHOA HỌC có tầm QUAN TRỌNG BẬC NHẤT nêu trên của Công Ðồng của các nhà Nghiên Cứu QUỐC TẾ ngày nay đã được Cố Triết Gia KIM ÐỊNH áp dụng từ lâu tức ít nhất 40 năm trước đây với khoa HUYỀN SỬ của Cố Triết Gia qua cụm từ MẠCH LẠC NỘI TẠI (Cóhérence Interne). Sau đây là lời giải thích của Cố Triết Gia về phương pháp KHOA HỌC nêu trên áp dụng cho khoa HUYỀN SỬ là một khoa NHÂN VĂN như sau:

 

"Vậy cần lặn sâu mới tìm ra MẠCH LẠC NỘI TẠI là cái sẽ thay cho sự MINH NHIÊN KHÁCH QUAN, một đặc điểm của Khoa Học THỰC NGHIỆM mà NHÂN VĂN không thể có; nhưng không phải vì vậy mà được quyền muốn nói gì thì nói, làm thế thì những điều nói ra thiếu giá trị. Muốn có giá trị, muốn cho HUYỀN SỬ đạt vinh dự của một nền KHOA HỌC thì phải nắm được MẠCH NGẦM của một nền VĂN HÓA. Vì thế, phải đưa ra QUY LUẬT để tìm ra cái MẠCH LẠC nọ. Thiếu những quy luật đó thì huyền sử chỉ là tán dóc." (Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam, trang 41)

 

Các QUY LUẬT được đề cập ở trên là hệ thống DỤNG, TỪ, Ý , CƠ mà Cố Triết Gia áp dụng vào khoa HUYỀN SỬ của Ông, rất phù hợp với KHUNG KHOA HỌC (Scientific Framework) nằm trong tiêu chuẩn KHOA HỌC tối hậu của công đồng Học Giả Quốc Tế vừa nêu trên.

 

Phần trình bày trên đây cho thấy là phương pháp HUYỀN SỬ của Cố Triết Gia không những không thiếu tính KHOA HỌC như lời đồn đãi, mà còn đáp ứng những đòi hỏi của các Tiêu Chuẩn MỚI NHẤT của khoa NHÂN VĂN ngày nay! Nhưng có lẽ vì phần lớn những người chỉ trích chỉ căn cứ trên những THÀNH KIẾN về tính KHOA HỌC thường dựa trên các Tiêu Chuẩn của Khoa Học THỰC NGHIỆM nên có lẽ đó là nguyên nhân chính yếu về những NGỘ NHẬN về tính KHOA HỌC của tác phẩm của KIM ÐỊNH.

 

B) TÍNH HÀN LÂM:

Một NGỘ NHẬN khác là về tính HÀN LÂM của KIM ÐỊNH. Những ai có may mắn tiếp cận Cố Triết Gia trong thời sinh tiền của Ông có thể thấy những hòm lớn đựng những tài liệu, những tập "Fiches" dày đặc mà Ông ghi chép lại trong suốt cuộc đời vốn "gia tài" học vấn "khổng lồ" của Ông. Và nếu để ý thì sẽ thấy những lập luận của Ông hầu hết đều có dựa trên các khám phá hay các tài liệu của các Học Giả QUỐC TẾ có tầm vóc trong nhiều lãnh vực nghiên cứu khác nhau. Nhưng vì sức SÁNG TẠO của Ông quá PHONG PHÚ: hết tác phẩm này đến tác phẩm khác ra đời với một vận tốc có thể gây "chóng mặt" cho ai hằng theo dõi con đường sáng tác của Ông, nên Ông không có nhiều thì giờ soạn một bảng THƯ TỊCH đầy đủ về các NGUỒN TRÍCH DẪN của Ông. Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối đời, khi cho xuất bản lại tác phẩm "Cửa Khổng" vào năm 1997, Cố Triết Gia đã soạn lại một bảng THƯ TỊCH rất đầy đủ của tác phẩm nêu trên và rất đúng tiêu chuẩn HÀN LÂM.

 

Trong tương lai, chỉ cần một nhóm nhà Nghiên Cứu họp lại đem áp dụng phương cách nêu trên cho các tác phẩm khác của Cố Triết Gia thì ta sẽ có một bảng THƯ TỊCH đầy đủ, đúng tiêu chuẩn HÀN LÂM cho toàn bộ tác phẩm KIM ÐỊNH.

 

c) TRIẾT LÝ NHÂN SINH:

Không những tác phẩm của KIM ÐỊNH đáp ứng các Tiêu Chuẩn KHOA HỌC ( lẽ dĩ nhiên với một quan niệm ÐÚNG ÐẮN, chứ không phải dựa trên những THÀNH KIẾN sai lầm về tính KHOA HỌC), và HÀN LÂM (nếu có thì giờ hoàn tất các công việc vừa nêu trên), nhưng QUAN TRỌNG hơn cả là tác phẩm còn là CẨM NANG của một nền TRIẾT LÝ NHÂN SINH Chân Thực không chỉ là đối tượng của SUY TƯ, mà còn của CẢM XÚC và SỐNG THỰC.

Do đó những ai có may mắn biết đến Con Người cũng như Tác Phẩm của KIM ÐỊNH khá sớm sủa, rồi dùng tác phẩm như bức CẨM NANG cho đời mình để SỐNG, CHỨNG NGHIỆM, cũng như để ÐÀO SÂU và KHAI TRIỂN bằng vốn KIẾN THỨC thu thập được, bằng KINH NGHIỆM sống thực cũng như bằng THỂ NGHIỆM Tâm Linh thì sẽ có một cuộc sống VIÊN MÃN về phương diện TINH THẦN, VĂN HÓA!

 

d) NGUYÊN NHÂN NGỘ NHẬN:

Lý do chính yếu của những NGỘ NHẬN nêu trên có lẽ là vì tác phẩm KIM ÐỊNH như có người nhận xét rất đúng là một "Khu Rừng" VĂN HÓA, nên không khéo thì sẽ đi LẠC ÐƯỜNG!

 

Nếu ai theo dõi từ đầu con đường Văn Hóa của Cố Triết Gia, thì sẽ nhận thấy các lãnh vực mà Ông nhấn mạnh đến là VĂN HÓA TRIẾT LÝ, chứ không phải LỊCH SỬ KHẢO CỔ. Năm 1970, với "Việt Lý Tố Nguyên", Ông đưa ra thuyết VIỆT NHO theo nghĩa NHO của người VIỆT như một Giả Thuyết làm việc hầu tạo sự hào hứng trong giới sinh viên và nghiên cứu. Do đó, "Việt Lý Tố Nguyên" được mở đầu bằng những lới lẽ như sau:"Ðây là công trình của một cuộc khảo cổ KHÁC THƯỜNG không dừng ở khảo cổ, ở bác học, nhưng phóng tầm mắt ra bên ngoài, bên trên, bên dưới khảo cổ, lịch sử, bác học.".

 

Ở chỗ khác, Ông sắp hạng thứ bậc cho Văn Hóa, Lịch Sử và Khảo Cổ như sau: KHẢO CỔ bị sắp hạng chót vì là môn chỉ bàn về những vật BẤT ÐỘNG, trên Khảo Cổ là LỊCH SỬ vì SỐNG ÐỘNG hơn, còn trên Lịch Sử là VĂN HÓA vì TOÀN DIỆN hơn, nhất là TRIẾT LÝ vì môn này giúp đời sống có ÐƯỜNG HƯỚNG. Ở chỗ khác, Ông tuyên bố KHẢO CỔ chỉ chiếm nhiều lắm là 10% của toàn bộ tác phẩm của Ông.

 

Do đó, thật là BUỒN CƯỜI khi có ngưới vì có lẽ mới đọc được một vài tác phẩm của Cố Triết Gia nên lầm tưởng KHẢO CỔ có địa vị Quan Trọng trong tác phẩm của Ông, nên "huyênh hoang" tuyên bố là "nắm" được Tư Tưởng KIM ÐỊNH, trong khi trong thực tế không biết đến ngay thứ tự Ưu Tiên của các lãnh vực trong Tác Phẩm của KIM ÐỊNH.

 

Ngay trong lãnh vực nêu trên, đương sự cũng có vẻ không nắm vững những Tữ Ngữ hay Khái Niệm Sơ Ðẳng của lãnh vực Nghiên Cứu, do đó có vẻ là TAY NGANG hơn là Tay Thiện Nghệ!

 

Bài hai : Mạn đàm An Vi

 

Nhân dịp chuẩn bị Lễ Giỗ của Thầy , hai môn sinh có dịp ngồi lại đàm đạo với nhau  về  Thầy của mình .   

Nho có nói : “ Cái quan nan định cổ kim bình “ nghĩa là khi đậy nắp hòm lại rồi người ta cũng còn khó phân định được  cái hay cái dở của con người đã quá vãng

Thầy chúng ta đã qua đời được 10 năm , chúng ta cũng được nghe nhiều lời khen tiếng chê , những lời khen thì cũng nhiều mà lời chê cũng không hiếm , chúng ta thử lướt qua xem những lời phẩm bình đó như thế nào .  Lẽ  tất nhiên là Thầy chưa phải là  hoàn thiện , làm sao tránh được khuyết điểm , nhưng chúng ta tìm xem trong những lời chê đó có điều nào bị ngộ nhận không .   Bênh vực hữu lý cho Thầy là một điều nên làm.

Qua cuộc mạn đàm chúng tôi muốn làm sáng tỏ vài điều mà chúng tôi nghĩ là Thầy bị ngộ nhận.

 

1.- Thưa anh ,  nhiều người khi đọc Thầy Kim Định, cứ nghĩ rằng trong các tác phẩm của Kim Định có những chỗ thiếu các chứng cớ khoa học, nên kém phần thuyết phục . Tại sao vậy ?

a.- “ Căn bản của vấn đề đã được nói trong cuốn : “ Thế nào là suy tư “ của  Heidegger , ông nói rằng : “Điều đáng cho chúng ta suy tư hơn hết là  là chúng ta chưa có suy tư “  ( W. D. 22 )  và Heidegger đua ra lý do là tại con người chưa biết ở đời , vì những người thời đại đi cà nhắc từ trong yếu tính , một cách kỳ cục, và đã từ lâu lắm  “  ( Kim Định : Tâm tư . tr. 13 ) 

Đức Khổng Tử cũng nói : “ Vị chi tư dã “  nghĩa là chưa có suy tư .

b.-  Vậy thì suy tư cách nào ?  Suy tư không phải chỉ với các ý tưởng  , lý luận , mà với  cà ba lãnh vực  : Ý Tình Chí .   

“ Tận cùng của lý lá lý luận biện chứng . Tận cùng của Tình là cảm nghiệm, nghệ thuật.  Tận cùng của Chí là thể nghiệm, là ngộ đạo, tức là nhận thức chiều kích vũ trụ nơi mình “ ( Kim Định  : Tâm tư . Lời Tựa )

Hoạt động của Lý là hướng ngoại , còn hoạt động của Tình , Chí thì phải hướng nội.

Kinh Dịch lại có câu : “ Dịch nghịch lý chi dã “ , nghĩa là Dịch lý là cái lý của chân lý ngược chiều : Khi đi ra thế sự thì phải dủng lý luận để cách vật trí tri ,( đây là lãnh vực hiện tưọng , có thể nhận  biết được bằng các giác quan : tại Địa thành hình). nhưng khi đi vào thế giới u linh man mác ( unmanifested : tại thiên thành tượng) thì không thể đòi chứng lý của giác quan, mà phải dủng đến Tình và Chí để mà cảm nghiệm , mà thề nghiệm .

Sở dĩ phẩn huyền thoại  của Thấy Kim Định ít được người lưu ý tới và thừa nhận là vì quý vị ấy đòi được chứng minh bằng những sự kiện khoa học là điều không thể không thể làm được,  làm chuyện này thì chỉ là chuyện không tưởng, vì ta  không thể lấy lý chứng của giác quan để chứng minh những phần u linh man mác của tâm linh .

Vì thế cho nên phải dủng đến khoa tâm lý miền sâu, vì uyên tâm đi lối phân tích và đối chiếu , nên giúp chúng ta nhận thức lại được giá trị sơ tượng và huyền sử của nền  Văn hoá Viễn Đông  một cách minh nhiên hơn .

Huyền sử là sử của những huyền thoại, là thứ sử vượt không và thời gian , huyền thoại là những mảnh vụn về sự khôn ngoan của con người và về cuộc đời , mà Tổ tiên  chúng ta trực thị được, nếu chúng ta tìm cách nối kết lại theo một mạch lạc nội tại thì ta đạt được minh triết . Mà minh triết là những hiểu biết giúp mọi người sống an hoà hạnh phúc .

Đó là lý do tại  sao các nhà duy lý không thề đi vào lãnh vực huyền sử tâm linh được .

b .-  Điều thứ hai là các cơ sở  khoa học , ta nên hiểu là loại khoa học nào, nếu là khoa học tự nhiên, thực nghiệm, thì thầy Kim Định đã dùng những công trình khám phá các lãnh vực như khảo cổ, di truyền, nhân chủng, uyên tâm  . .,  những công  trình khai quật đó được dùng  như là những bàn nhún ( springboard ) để vươn lên lãnh vực triết lý, để triệt thượng và triệt hạ đễ có chu tri mà có cái nhìn tổng quan . Vì thế mà nhiều chỗ là thầy bảo  các khám phá trong những lãnh vực đó để dành cho các nhà chuyên môn , thầy đã có chất liệu cần thiết để vươn tới rồi .

Cái bàn nhún đó cũng giống như người dùng chiếc đò dùng qua sông, khi đáo bỉ ngạn thì không cần nữa, chỉ cần đủ chứ không cần nhiều.

 

2 .-   Nền văn hoá Viễn Đông là nền văn hoá lâu đời, những thăng trầm của lịch sử đã xé nát từng mảnh, những mảnh của những nền văn hoá khác nhau đã đan kết xen lẫn  vào nhau , một số đã chôn vùi theo lớp bụi thời gian , một số đã bị xuyên tạc cạo sửa, nên việc tìm về nguồn cội văn hoá xưa nhất là thời khuyết sử là cả một công trình diệu vợi .

Lại nữa khi đi vào Nho giáo , phần nhiều  ta có những câu ngắn gọn,  những câu rời rạc , đọc qua thì chẳng thấy có liên hệ mật thiết chặt chẽ  với nhau .

Nên nếu không đi theo con đường :  Bác học, quảng vấn, Thận tư , minh biện (đốc hành ) để có cái nhìn tổng thể thì chẳng nhận diện ra.

Về mặt bác học, quảng vấn  thì buộc người  làm văn hoá phải đọc vô số tài  liệu không những của quốc gia mình và nhất là của Tàu, là nơi xuất phát của nền văn hoá , và cũng phải   đọc các công trình khảo cứu triết học Tây phương nhất là  khoa học Tân nhân văn là những phương pháp khoa học để có cách làm việc một cách khoa học và cách lý luận một cách rõ ràng khúc chiết  giúp cho sự minh biện được dễ dàng , tiếp đến phải vận dụng đến Thận tư tức là con đường của Tình và Chí hầu tìm tra mối liên hệ giữa các sự kiện  để tìm ra mối nhất quán .

Người làm công tác khai quật nền văn hoá xưa không những phải  có kiến thức sắc bén về lý luận , mà còn cấn có một trực giác thật mạnh và tinh tế để nối kết các sự kiện theo mối tương quan nhất quán,  gọi là “ Nhất dĩ quán chi “ để nhận ra cái Tổng thể . 

Thầy Kim Định đã y cứ phần nào vào hai yếu tố du mục và nông nghiệp cùng phương pháp gạn đục khơi trong trên để nhận diện ra cái tinh hoa của văn hoá Việt

Cách làm việc theo phương pháp khoa học ( cả khoa học thực nghiệm và tân nhân văn )  nó nằm ẩn trong công trình nghiên cứu , nhất là về phần “phản quy kỳ căn “  là phần tâm linh  nên cứ bị xem là thiếu khoa học.

Nếu ta không đọc hết các tác phẩm của Kim Định , và không dùng cái Tâm đạo để cảm nghiệm để thể nghiệm chắc khó lòng mà lãnh hội được.

 

3.- Có người cho rằng  các học trò của Thầy cần cô đặc  công trình của Thầy theo từng luận điểm  và cung ứng cho các luận điểm đó  những chứng từ khoa học xác thực, thì một số lại pha vào loảng hay nhai lại một cách nhạt nhẽo Kim Định  .

Điểm thứ nhất là cô đặc : Kim Định đã nhận ra phần công thức hoá của Nho giáo đã được Khổng Tử cô đặc lại vào có  3 chữ : Chí Trung Hoà. ( T. D . )   Khi đi tìm về cơ cấu của  Việt Nho  thì Thầy Kim Định đã xác quyết , Nho giáo không chỉ là Khổng giáo , là Tứ Thư Ngũ Kinh , mà cốt tuỷ là bộ số huyền niệm : 2, 3, 5.

Vậy công việc làm loảng  tư tưởng của Kim Định là điều cần thiết để  giúp cho mọi người dễ hiểu hơn, và phải trình bày vấn đề theo một trình tự có mạch lạc là điều cần thiết .

Còn những luận điểm khoa học như những công trình khoa học như “ the path of Adam and Eve  cũng như the culture of beads “ có thì tốt hơn mà không cũng được, vì đã có đủ cái bàn nhún khác rồi . Công trình của Thầy là công trình về văn hoá,  về triết đông , là thứ triết lý nhân sinh, chứ không phải là những công trình nghiên cứu thuần khoa học. 

Lại nữa khi tìm hiểu về công trình của  Thầy  có anh em đã trích thật nhiều những lời của Thầy vì có hai lẽ: Thứ nhất những lời của Thầy viết là đã đúc kết của nhiều tài liệu tham chiếu, nên khi trích dẫn mình đỡ phải trưng dẫn thật nhiều lôi thôi , làm thêm rắc rối, lại nữa  lối văn của Thầy là lối văn giàn dị, rõ ràng dễ hiểu nhất là nội dung lại tình lý khăng khít với nhau , không khô khan như  kiều duy lý .  

Thứ hai là những lời trích đó khi ghép lại là để nói lên một mạch lạc  của một vấn đề, đành rằng đó là  những bài ghi chép những điều học được của Thầy .

 Mục đích là để giới thiệu với nhiều người về một số điều của nền văn hoá Việt, chứ không phải là những công trình hàn lâm, vì văn hoá Việt là thứ phổ biến cho toàn dân, từ “ ông ăn mày cho đến Vị quân vương “.

 

4 .- Có người cho rằng những công trình khảo cứu của Thầy có tính cách yêu nước cực đoan .

a .- Về điểm yêu nước thì nhật định rồi,  vi cả đời Thầy chỉ đi tìm những tinh hoa của văn hoá đại chủng Việt để mơng đem lại  cái chủ đạo cho đất nước để xây dựng lại con người đã bị phân hoá và xây dựng lại cơ chế xã hội cho được : Thứ nhất là giúp cho các cơ chế được tiến bộ  ( có hai đối cực )  và giữ được thế quân bình để trường tồn.

Về con người thì có hai phần tâm linh và thế sự . cơ cấu ngũ thường và ngũ luân là sự giao thoa giữa tâm linh và thế sự , nó là con đường xây dựng  Tu, Tề, Trị, Bình . Nghe đến tên thì rất cũ, nhưng xét về nội dung thì lại rất hợp với nhu cầu tâm linh của thế kỷ 21.

Còn điểm quan trọng khác là  nền văn hoá này được gọi là Việt Nho , mà Nho cũng là Nhu, cũng có nghĩa là nhu yếu của con người : đó là Thực ,Sắc Diện . Thực là ăn , là nhu cầu đầu tiên của mọi người , ngoài cái ăn để duy trì sự sống , việc ăn còn là một nghệ thuật và đạo thuật nữa .  Còn Sắc là sắc dục là tính dục là nhu cầu yêu đương của thể xác , mà cũng là nhu cầu truyền sinh để duy trì nòi giống là giờng sinh sinh hoá của Tạo hoá. Con  Diện là thể diện tức là khát vọng tự do đi về nguồn mạch của Tâm linh , là nguồn Sống và Sáng để vươn tới những giá trị Chân, Thiện, Mỹ .

Văn hoá lưu tâm tới đời sống của mọi người , để mong đem lại sự an bình và hạnh phúc cho mọi người nơi đây và bây giờ .

Đây là nền tảng chung của văn gia và chất gia .

Nhưng nền văn hoá này cũng đề cập tói những vấn đế thuộc về Dịch lý là những vấn đề mà các nhà triết học thời nay  đang để tâm nghiên cứu, nên cũng đáp ứng được khát vọng của những văn gia .

 Do đó mà nền văn hoá này được phổ cập cho mọi người trong xã hội , ai cũng có thể sống theo phần của mình trong đó.

Thầy Kim định đã để suốt cuộc đời mình đề tìm ra cái chủ đạo của Tổ tiên xưa , mong mỏi thiết tha tìm được sinh lộ cho dân tộc, chứ không có  đi vào con đường hàn lâm để tìm những giá trị khác .

b .-  Còn vấn đề cực đoan  thì cũng có , nhưng mà là thứ cực đoan của triết học Đông phương , vì triết  là triệt : triệt thượng và triệt hạ .

Khi đi tìm về bất cứ vấn đề nào cũng đi theo bước lượng hành  để làm nổi bật vấn đề : khi nói về cái khuyết điểm của một vấn đề thì cũng nêu ra  cái ưu điểm để làm sáng rõ vấn đề hơn, khi nói về mặt tiêu cực thì cũng nêu lên cho được cái mặt tích cực của vấn đề , khi đối chiếu các nền văn hoá với nhau thì cũng nêu lên  cái ưu và khuyết điểm của các nền văn hoá đó , khi bàn đến  hiện tượng thì cũng đề cấp đến vấn đề bản chất , tất cả là để mong đạt tới cái biết chu tri.

Khi nghiên cứu vế văn hoá thì cũng phải đi tới cái ngọn nguồn là cái cơ cấu của nền văn hoá , và cùng đích của  văn hoá là đề phục vụ con người cụ thể nơi đây và bây giờ , chứ không bàn đến những chuyện xa xôi không ăn nhập gì đến con người bao nhiêu, như khi nghiên vứu về văn nghệ thì không những chỉ  chú tâm vào “ nghệ thuật vị  nghệ thuật “, mà cấn thiết hơn là thứ “ nghệ thuật vị nhân sinh “ .

Ngày nay ngành chính trị đã bao trùm mọi ngành khác trong xã hội, nếu

không có chế độ chính trị tốt  thì đời sống của mọi người dân sẽ không bao giờ thoát khỏi cảnh lầm than, nên khi bàn đến vấn đề chính trị là vấn đề rất thiết thân , thì phải nêu lên cho được bản chất của nến chính trị vương đ ạo và bá đạo.   Đây là công việc của nhà làm văn hoá một cách tích cực hay nói cách khác là đi tìm cái linh hồn  cho các ngành khác nhất là chính trị , để giúp mình và giúp ngươì ít nhất là trong việc làm chính trị công dân , chính trị công dân là trách vụ của tất cả mọi người dân trong một nước.

Nếu cách làm việc như thế này là quá khích thì quả thật Thầy Kim Định là người  rất quá khích.    

 

5 .-  Qua các việc khen chê như thế , không bao giờ Thầy Kim Định như hầu hết các môn sinh của Thầy  đều không bao giờ gây ra các cuộc tranh luận nào cả là vì sao ?

Xin thưa, chúng ta là những người làm Văn Hóa Dân Tộc.  Mà cốt tủy nền Văn hóa của Cha ông ta là chữ Lễ.

Lễ là cung và kính. Cung là trọng mình. Kính là trọng người.

Trọng mình thì ai nấy phải hiểu theo nghĩa sâu xa của Triết Việt. Có nghĩa là phải  đi trên năm bậc: Bác Học, Quảng vấn, Thận tư, Minh Biện, Đốc Hành.

Trong hai  bước đầu tiên là Bác học , Quảng vấn  tức là học và hỏi , đó là điều con người phải tìm tòi , cầu học, tìm hiểu bàn luận nơi kinh sách , phải có thầy có bạn , đó là ý trong câu : “ Trong ba người bạn đồng hành , một người có thể làm thầy ta được “

Kinh sách thì kêu lên là rừng rậm, 8000 trang chưa đọc một lần, mới chỉ vài quyển xem vội xem qua , chẳng nhìn trước nhìn sau , xem bao nhiêu người bao năm đã từng ngày đêm nghiền ngẫm, tinh nghĩa nhập thần .

Mới vỏn vẹn vài trang khảo cổ mà đã đắc chí rung đùi tưởng mình là “ trung tâm vũ trụ “ , mà nhận với định, phê với phán , thì có quả là “ếch  ngồi đáy giếng “ không ?

Chưa qua nổi bước đầu là tri thức là Bác học và Quảng vấn thì Có Gì để Tư Duy ?  Nên nói ra chỉ là nguỵ biện , và viết gì đi nữa cũng chỉ là hời hợt kiểu “ gải ghẻ ngoài da “  trong khi kiến thức của mình đã ung thư đến lục phủ ngũ tạng rồi.

Còn nói chi xa vời đến Chữ Lễ Nội Khởi  của triết Việt, xuất phát từ ý thức trọng mình,  trau dồi chữ Học cho đến nơi đến chốn , để rồi còn Hành , vì triết lý An Vi không phải là loại trí thức suông , nói một đàng làm một nẻo . Triết lý An Vi là Triết lý Nhân sinh, là một đạo Hành vi . Cho nên Cung với Kinh là bước đầu phải học.

Cho nên Vô học chính là Vô lễ với chính mình, chẳng trách chi vô lễ với người .  Đó là lý do người xưa có câu “ Tiên học Lễ, hậu học Văn “

Và Lễ được đưa lên hàng KINH , để giáo dục con người thời xưa , mà xã hội Duy Lý , Duy Vật đã vong thân , vong bản và đang thiếu trầm trọng .

Hậu quả là cà người bàn về chuyện về nguồn văn hoá , mà chẳng giữ Lễ là gì !

Đó là chưa kể muốn nói chuyện triết lý với học trò Kim Định thì ít nhất cũngphải đọc hết sách Kim Định thì mới có đũ yếu tố để bàn luận.

 

Hai môn sinh

Lê Việt Thường
Số lần đọc: 2434
Ngày đăng: 28.03.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đi tìm những vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử - Ngữ Yên
Arthur Rimbaud . Tâm hồn nào không lầm lẫn - Vũ Trọng Quang
Cảm thức thơ ca – Tâm quán thiên thu - Trần Hữu Dũng
Không chỉ là duyên thơ - Dư Thị Hoàn
Nhân 10 năm triết gia, nhà văn hóa lớn Kim Định qua đời : Xác lập cơ sở khoa học cho học thuyết Kim Định - Hà văn Thùy
Đã đúng là 100 bài thơ hay nhất ở Thế kỷ XX chưa ? - Lê Xuân
Sắc tím bằng lăng trong Nửa Đêm Làm Vợ - Nguyễn Nguyên An
Tiểu thuyết BỤI TRẦN trên con đường viết văn của TRẦN ĐỨC TIẾN - Phạm Quang Trung
Thử thay đổi cách nhìn vào thực tại : Đọc Người ăn gió và quả chuông bay đi ,Tập truyện ngắn của Nhật Chiêu - Trần Hữu Dũng
Đọc sách Phản biện xã hội, Trần Đăng Tuấn, Nhà xuất bản Đà Nẵng : Ngẫm ngợi về … - Lê Anh Hoài