Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.400 tác phẩm
2.747 tác giả
386
116.779.158
 
Gỗ và đá
Trezza Azoopardi

Anh  phóng nhanh lên đỉnh đụn cát và nhìn xuống bờ biển. Có nước, cát ướt lẫn cát khô và những vành mũ cỏ nhọn nhỏ lấm chấm trên bãi biển. Anh đứng trên mép  hàng rào bê tông và nhìn về phía đông tới đường viền của con đê sau đó về phía tây tới ngọn hải đăng ở đằng xa. Anh không thể nhìn thấy một ai, không một ai anh có thể cầu cứu. Ở phía dưới anh bãi biển cách 15 thậm chí 20 feet. Anh nhảy vào khoảng không  bởi anh phải làm như vậy, và khi rơi anh nhìn thấy một thứ gì đó, một đàn chim trắng  đang lơ lửng ở đường chân trời. Có vị  gì đó nóng rẫy tràn đầy miệng anh, giống như sắt đang tan chảy, rồi  một nỗi đau đớn ghê gớm và anh nhận ra rằng răng anh đang cắn chặt lấy môi.

 

Đấy là giấc mơ mà Lewis thường thấy, và việc quen thuộc anh làm khi tỉnh dậy là  sờ tay lên đôi môi  đang mở và xoa ngón tay lên cằm . Anh có một vết sẹo ở đó  mà những đôi mắt thông thường hầu như không thể  nhận thấy,  nó giống như miệng con ma chưa bao giờ mở ra, giống như đường chân trời.

 

Đã mười lăm năm kể từ khi anh nhảy rồi ngã và  anh không bao giờ quay trở lại bãi biển. Anh đã dùng cả quãng thời gian trưởng thành ở trái tim của nước Anh, ở ngay trung tâm thành phố như thể việc đặt anh ở trung tâm đông đúc của thế giới sẽ giúp anh tránh khỏi cú ngã khỏi bờ mép của nó. Nhưng giờ đây anh đã trở về ngôi nhà của mẹ , và ở đây giấc mơ sinh động với màu sắc,hiệu ứng âm thanh và nỗi sợ hãi tăng lên  như thể cuối cùng nó đã theo anh về nhà.

“ Có lá thư cho con đấy!”, mẹ nói lớn khi nghe thấy tiếng chân anh trên cầu thang.

“ Mẹ vừa đặt nó trên bàn đó”.

 

Mẹ không nói gì thêm nhưng Lewis có thể nghe thấy sự kích thích trong giọng nói của  bà như thể lá thư là thứ quý hiếm nhất vậy. Anh đã ở đây được một tháng và đã không trò chuyện với một ai ngoài mẹ, không có cuộc gọi nào, tất nhiên không có lá thư nào, không có bất cứ thứ gì từ Ana. Anh hình dung ra cô  đang nằm trên giường với khuôn mặt  choáng váng, đẫm nước mắt giống như buổi sáng mà anh bỏ cô ra đi.

 

Anh nhấc  cốc trà mẹ pha và nhận ra bà  đang ngồi phía sau ngôi nhà, mặt hướng ra cửa sổ và bờ biển. Bà choàng một chiếc khăn len quanh người  và đi đôi dép lê màu hồng. Trông bà thật mỏng manh.

“ Ngày đang kéo dài ra”, bà nói  và hất đầu ra hiệu về hướng ánh sáng đang trườn trên mặt biển. Bà đã nói như thế vào mỗi buổi sáng kể từ ngày đầu tiên. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Lewis rằng anh có thể sẽ ở đây đến mùa đông, khi mẹ nói đêm đang dần ngắn lại. Ý nghĩ đổ đầy anh với nỗi khiếp sợ.

 

Bà không hỏi lá thứ đó là của ai và ngay sau khi họ nói chuyện về những gì anh sẽ làm trong ngày hôm nay, anh cầm lá thư đi lên cầu thang về phòng mình. Chiếc phong bì đã bị hơi nước làm bong  ra. Lewis ngừng lại một giây để hít thở sâu. Cô ấy có thể trông như một quý bà  nhưng cô ta đã không hề   thay đổi. Anh quyết định không để ý tới cô ta  nữa. Chiếc phong bì thứ hai là bức thư  của ông hiệu trưởng gợi ý rằng anh nên đến để trao đổi. Tờ giấy  được gập một cách đơn giản là từ Ana. Cô viết: “ Geoff Harris có ghé qua. Anh ta hỏi về anh. Em không biết là em nên trả lời anh ta như thế nào. Em  nên nói sao đây?”.

 

Lewis ấp lá thư lên mặt. Anh không thể tìm thấy mùi hương của cô qua những lời này.

Anh dành cả buổi sáng nằm trên giường và cố gắng không nghĩ gì. Mặc cho cố gắng ngăn lại của anh, từng cảnh từng cảnh một lặp đi lặp lại. Một cậu bé với chiếc áo cộc tay bị kéo bật khỏi vai và hai  đứa  khác- hai đứa đều tên  Michael- đẩy cậu bé vào bức tường. Có máu trên môi  và vết bẩn trên mặt cậu bé lẫn những vết mờ chảy xuống ròng ròng từ vết bẩn. Cậu bé không kêu một  tiếng nào. Lewis đã nhìn thấy cậu bé ngoài hành lang với bộ đồng phục mới và lưng còng lại vì sức nặng của chiếc ba lô. Anh không biết tên cậu bé  cho dù sau đó anh biết rất rõ : Paul Fry. Ban đầu trông cậu bé cũng như những cậu  khác anh gặp lần đầu, một tuần sau họ đã đá những chiếc ba lô của mình dọc theo sàn, giày họ đóng bùn và họ cười, nhìn nhau nghi ngại. Lewis chú ý cậu bé chỉ vì cậu  đã làm nên cảnh này: giày cậu bé vẫn giữ được sáng bóng, nhưng chiếc áo cộc thì bị vấy bẩn bởi bụi phấn và dòng nước bọt đã  khô lại. Mặt cậu bé  phủ một cái nhìn ma mãnh. Có một vài cậu bé như thế mỗi năm. Một hai cán bộ nữ đã đặt cho chúng những cái tên, họ gọi chúng là  “Pin mới” và sau đó chỉ đơn giản gọi là Pin để chứng tỏ rằng những đứa còn lại sẽ không bao giờ hợp với tên như thế. Sau đó họ phân biệt các cậu bé bằng những nickname như: Pin “hôi”, Pin “đầu đinh” và cậu bé này Pin “đẹp trai”, dựa vào khuôn mặt tái xanh và mái tóc quăn như con gái.  Lúc này hai cậu Michael lực lưỡng đang vuốt ve tóc của Paul Fry biểu thị sự chế giễu, chòng ghẹo. Khi nhìn thấy Lewis chúng bỏ chạy và cười. Paul Fry không tỏ ra vui sướng với sự can thiệp này một chút nào. Cậu ta xốc lại chiếc áo rồi quay đi.

Cố gắng sao cho giống như một người bạn, Lewis nói: “Đi rửa mặt nào con trai”

 

Trong những lúc Lewis không nghĩ về Paul Fry và những gì xảy ra sau đó, anh tưởng tưởng ra những hậu qủa khác nhau. Đôi khi anh tưởng tượng anh là loại người thích  gây khó dễ cho các giáo viên như Stott và  Walker, loại người mà ông hiệu trưởng đánh giá   nghiêm túc. Nhưng ở đây là bờ mép của thế giới anh không thể nghĩ được ngì khác ngoài âm thanh của biển. Anh cố gắng ngụy tạo rằng tiếng động đó là của xe hơi chạy trên đường mưa nhưng ở đây không có chiếc xe hơi nào, không thể  trốn chạy khỏi sóng trên bãi biển, những cồn cát màu đồng, những cánh chim nhạn biển và ánh sáng quét trên mặt biển.

 

Lewis đã từng trốn chạy. Đấy là lựa chọn sinh tồn thích hợp nhất, mẹ anh đã nói vậy. Mẹ đã bực bội với anh, đã chán ngấy với việc khuyên bảo anh trở lại trường học. Để thích hợp hơn mẹ chỉ bảo “Đừng trẻ con nữa”. Và cuối cùng thì với mẹ bao giờ những đứa con cũng thật bé bỏng. Đấy là quy luật tự nhiên là lí lẽ của sự sinh tồn.

 

Trong chốt lát Lewis ngừng nói chuyện với mẹ. Nó dễ  chịu hơn. Nhưng anh ghi nhớ từng lời của mẹ là hãy trở thành chuyên gia chạy trốn, đề mài sắc kĩ năng sinh tồn của mình. Anh đã chiến thắng, anh đã sống sót cho tới một ngày anh chạy ra khỏi cánh đồng, khỏi góc phố nơi anh ẩn nấp: cho tới ngày Lewis rớt khỏi mặt đất.

*                                                                                                                                              

Lewis đã yêu cầu ông hiệu trưởng tổ chức  một buổi họp. Anh đã không ngừng để mắt đến Paul Fry, anh quan sát nhưng không can thiệp và ghi chép lại nhiều điều. Anh đã giải thích mọi điều đó với ông hiệu trưởng, người thậm chí rất quan tâm lo lắng. Harris nói rằng anh biết có vấn đề gì xảy ra với Paul Fry. Anh ta muốn xem những điều Lewis đã ghi chép. Điều này không được, chỉ mình anh được phép biết thôi. Lewis nghĩ vậy và từ chối. Ngày tiếp theo Harris đến tìm gặp anh sau giờ học.

“ Vấn đề đã nằm trong tầm tay rồi.  Xin  cám ơn sự thận trọng của cậu”

*

Phòng ngủ của anh trông vẫn nguyên như lúc anh dời đi: vẫn chiếc giường nhỏ đặt ở một góc, vẫn chiếc tủ quần áo không bao giờ khép, vẫn chiếc tủ có  nhiều ngăn kéo gần chiếc giường. Anh mở ngăn kéo tìm tờ giấy. Anh sẽ viết cho Anna. Có thể rồi cô sẽ đến thăm anh. Ngăn kéo nhét đầy quần áo của mẹ anh. Ở ngăn kéo cuối cùng anh tìm thấy một đống những tờ tạp chí cũ và một bộ sưu tập đá thạch anh, viên nào cũng trắng đục, tròn và trơn nhẵn. Những viên thạch anh hồng, khi anh đưa cho mẹ viên đầu tiên ,  mẹ anh nói trông chúng giống như nhưng viên đã cũ kĩ cho tới khi nó bị  ướt.

 

Lewis đã tìm thấy nó ngay trong ngày đầu tiên  trên bãi biển. Họ đã trốn chạy khỏi thành phố cho một cuộc sống mới. Họ đã chạy trốn người cha dượng, người luôn thích giải quyết mọi chuyện bằng tay, mẹ anh nói thế. Mẹ anh nói họ sẽ chạy đến tận cùng trái đất. mẹ đã không hề nói đùa. Lewis nhặt một viên thạch anh và liếm, cảm nhận cái vị muối thơm tho cũ kĩ của nó. Khi mọi chuyện  khó khăn, anh chạy ra bờ biển và tìm cho mẹ một viên thạch anh mới. Anh đang trên đường làm việc đó thì phát hiện ra mấy cậu bé đang đi thong thả phía sau anh. Trông chúng như thể  đang không đuổi theo ai cả mà chỉ như đi tản bộ. Chúng chưa bao giờ đến chốn xa xôi này trước đó.

*

Cuối cùng thì Anna cũng trở nên chán ngấy anh.

“ Nó đã trở thành sự ám ảnh”, mẹ anh nói “ Con phải dừng việc đó lại ngay”.

Trước hết bà muốn biết về những kẻ bắt nạt ở trường học, về cuộc sống gia đinh của chúng. Nhưng anh muốn nói cho bà nghe về Paul Fry. “ Những kẻ bắt nạt chỉ là những kẻ  bắt nạt thôi”, anh nói, “ Vấn đề là ở chỗ cậu bé”.

 

Sau đó bà thở dài khi anh đi làm về,  nhìn anh với cái nhìn chẳng khác  những bộ quần áo mẹ anh vẫn thường mặc. Thậm chí bà  luôn dùng những lời tương tự nhau.  

“ Chuyện gì đã xảy ra thế?”, bà hỏi hầu như mệt mỏi. Sau giây lát bà bỏ đi. Anh có  thể ghi chép  trong yên tĩnh.

*

Những cậu bé đang mang theo thứ  gì đó: có lẽ là những chiếc cần câu. Nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy chúng câu cá. Anh đã nhìn thấy chúng ở trường học, anh đã nhìn thấy chúng ở những góc phố, một cái nhìn lướt qua chúng khi anh bỏ chạy; như thể những  cái bóng giống hệt nhau  dưới ánh đèn đường, đang hút thuốc.  Anh quan sát chúng từ một khoảng cách. Lewis đã thận  trọng và bọn chúng vẫn chưa tóm được anh. Anh liếc nhanh về phía sau vai. Anh không dám chắc: liệu đó có phải là những chiếc cần câu không? Hay là gậy? Hay là những thanh sắt? Anh bắt đầu bước nhanh hơn. Cát vây quanh giày anh, trượt đi trên mặt rêu ướt, trong nỗi hoảng sợ, cảm thấy như những thanh sắt giáng xuống đầu anh vì thế bây giờ anh chạy thật nhanh lên những cồn cát, vượt qua nó và gặp những ngọn gió đang thổi tới từ biển. Anh sẽ đứng trên mép vết tường bê tông. Anh sẽ nhảy bởi vì anh phải làm thế.

*

Một cánh tay gãy, sự chấn thương, và 12 mũi khâu ở môi dưới. Lewis đã sờ mó những vết khâu như anh sẽ sờ mò vết sẹo-nỗi đau-hàng ngày trong quãng thời gian còn lại của cuộc đời anh. Lưỡi anh cứng lại đắng ngắt ngăn anh nói với mẹ sự thật. Bà nói về những cậu bé tốt bụng người đã tìm ra anh và về việc anh sẽ phải đi cảm ơn chúng khi anh ra viện như thế nào.

“ Nếu bọn trẻ không đến đó câu cá, thì rất có thể con sẽ còn phải nằm đó cho đến lúc thủy triều lên. Bọn trẻ đã cứu mạng con rồi đó”.

 

Thậm chí khi miệng anh đã khỏi, nói năng dễ dàng hơn bà cũng không tin vào những lời anh nói.“ Tất cả những điều ấy chỉ có ở trong ý nghĩ của con thôi!”, bà nói, đấy cũng  là những gì mà ông hiệu trưởng đã nói bóng gió với Lewis vào ngày cuối cùng, sau khi gợi ý anh nên nghỉ một vài ngày. Đấy chính là ngày trước khi Paul Fry được tìm thấy.

Lewis nhìn chằm chằm vào viên thạch anh và hiểu được những gì mẹ anh cảm thấy: lo lắng, giận dữ, bất lực. Cách sinh tồn thích hợp nhất, bà đã nói thế. Và đấy chính là khi bà nghĩ cuối cùng  anh đã được bình yên và hanh phúc, anh đã quay trở lại. Ngoại trừ trong đôi mắt bà, anh đã lại vừa trốn chạy lần nữa.

 

Lewis bỏ viên đá vào túi. Anh sẽ ngừng việc chạy trốn, anh nghĩ vậy. Cuối cùng anh đã sống sót. Khi anh đến mép nước, anh ném những viên thạch anh trở lại biển cả , từng viên, từng viên một. Anh không biết anh sẽ nói gì với Anna hay với Geoff Harris. Anh biết đã không còn gì, giờ đây anh đã không thể nói chuyện với Paul Fry được nữa. Lewis nằm xuống, áp tai xuống cát và lắng nghe tiếng rền của đất.

 

Nguyễn Quốc Vương dịch từ nguyên bản tiếng Anh.  

 

Trezza Azoopardi
Số lần đọc: 1698
Ngày đăng: 14.09.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Sông xa - Nguyễn Lệ Uyên
Nà Bò cỏ ống - Hoa Ngõ Hạnh
Chị và em - Hội An
Biển xanh sâu thẳm.1 - Peter Hobbs
Biển xanh sâu thẳm.2 - Peter Hobbs
Nhân quả - Trương Hoàng Minh
Mật đắng - Đổ Thị Hồng Vân
Hài nhi không biết cười - Trần Văn Bạn
Một Buổi Chiều - Ian Ranking
Thiên thần 18 - Đào Phạm Thùy Trang
Cùng một tác giả
Gỗ và đá (truyện ngắn)