Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.405 tác phẩm
2.747 tác giả
508
116.808.031
 
Trự lập
ManTran

Đầu năm 1976, tôi được lệnh về nông thôn tăng gia sản xuất, vì ở chốn thị thiềng này không biết làm nghề gì để sống. Sau một lúc dáo dác tìm tòi, cuối cùng tôi chọn xứ Ông Muộn.

 

Xứ này được tôi chọn cũng vì có bà Dì ruột sinh sống lâu đời ở đây. Ông Muộn là một ấp cách thị xã Cà Mau khoảng 5 cây số, đi lại chỉ bằng đường sông thôi, muốn đi bộ thì phải lội băng đồng vì không có đường bộ. Tôi không hiểu địa danh này ý nghĩa ra sao, có người giải thích rằng ngày xưa ở đây có một ông tên là Muộn, lại có người giải thích lũ ong làm biếng, chậm chạp không tranh được "kèo" ở rừng U Minh, khi hết mùa bông tràm bay về đây làm tổ muộn màng.

 

Tôi về xứ đó cùng vợ và đứa con đầu lòng, cất cái nhà trên phần đất cạnh nhà Dì Hai tôi, hàng xóm của tôi là một người đàn ông lớn tuổi tôi kêu bằng Bác Hai vì là xuôi gia với người cậu bà con của tôi, ông này có hai hàm răng giả bịt vàng nên tôi nói lén với vợ tôi rằng ông là ông Hai Răng Vàng. Thỉnh thoảng khoảng 1 tuần lễ tôi có đi ra Cà Mau thăm nhà và mua một ít cà phê về pha uống và khách mời thường xuyên của tôi là ông Hai Răng Vàng. Trong những lần uống cà phê và uống trà đó tôi được nghe ông kể về những bí ẩn của đất Ông Muộn này.

 

-Thằng Tư mày biết không, xứ sở này linh thiêng lắm, đã từng là nơi quân lính vua Gia Long chạy giặc đi ngang qua đó. Mày thấy ngang bên sông nhà mình không, có hai cái mã cao cao đó, đó là nơi hai ông quan của ông vua Gia Long tử trận chôn ở đó đó, linh lắm. Tao nghe ông già tao nói ngày trước có mấy ông cọp chiều chiều lại hầu trên 2 cái mã đó và đùa giởn vui lắm.

 

Sau một hớp cà phê thấm giọng, ông nói tiếp:

 

-Mày qua nhà tao thấy bàn thờ trên cao cao đó không, tao thờ ông Ba, ông thầy tao đó, ổng còn sống nhưng đạo hữu phải lập bàn thờ… thờ ổng. Hôm ổng xuống thăm tao, ổng ngủ trên bộ ván ngựa phía trước, sáng lại ổng hỏi tao: "Ở đây có ông quan nào chết chôn đây không". Tao trả lời: "Có 2 ông quan chết chôn ở 2 cái mã cao cao đó, ngang nhà". Thầy tao nói: "Hèn chi hồi hôm tao ngủ thấy có 2 ông quan áo mảo cân đai nghiêm chỉnh, lại có mang 2 cây gươm vàng đẹp lắm, qua đây…chào tao". Đó mày thấy linh không?

 

Tôi gật đầu dạ dạ mà bụng thầm nghĩ xứ sở gì mà ghê quá, tôi hỏi:

-Vậy hai ông quan đó có qua chào bác không"

Bác Hai hừ hừ:

-Chắc tao…chức tước trong đạo chưa cao lắm nên hai ổng chưa qua chào, mà mày hỏi chi vậy…hỏi hoài.

 

Vài tháng sau đó, ấp có mở cuộc họp dân, ông trưởng ấp là ông Tư Hành làm chủ xị:

-Ấp mình có trường mà mấy cô giáo ngoài tỉnh vô dạy thì khi lặn, khi hụp, biết bao giờ tụi nhỏ mới biết chữ đây.

Một ông bô lão trong ấp nói:

-Tui có đi chợ gặp mấy cô giáo rồi, mấy cô nói ở đây đi lại khó khăn quá, muốn vô dạy thì phải quá giang xuồng, nhưng xuồng đi chợ về thì cũng trưa rồi, dạy không bao lâu thì đến chiều phải về, có hôm học trò không có xuồng đưa về phải lộ bộ băng đồng, ngán quá, chắc mấy cô xin nghỉ dạy đó. Mấy hôm rày mấy cô đó có vô dạy đâu.

 

-Vậy lấy ai dạy đây. Thằng Tư mày lên xã xin giáo viên về dạy đi.

Ông Tư Hành ngượng nghịu đứng lên nói:

-Tui có xin trên xã rồi, nhưng trường ở xã còn không đủ giáo viên, thì mình làm sao có.

Các vị bô lão nhao nhao bàn tán ì xèo, bổng nghe tiếng vổ tay cái độp:

-Tui nghĩ ra rồi - ông Tư Hành đứng lên nói - ở đây mình có thầy giáo mà không biết, hôm rồi trên xã có xuống tính diện tích đất từng hộ ở ấp này với tui, ba con số phết phết làm tui và cán bộ xã tính hoài không ra. Mấy ổng bày đặt đủ thứ, mấy cái số lẻ thì bỏ mẹ nó đi, làm sao mà chia được, mà chia tới 4 con lận. May sao có chú Tư M đây lại chứng giấy, chú thấy vậy chú làm dùm rẹt rẹt là xong. Giờ thì chú tư làm ruộng hổng rành, chú có biết chữ nghĩa, thời gian này rảnh rỗi, thôi thì mình mượn chú dạy cho bầy trẻ ba cái chữ đi, để chờ cô giáo lâu quá chắc tụi nhỏ quên hết chữ nghĩa à nghen.

 

Dượng Hai tôi nghe vậy bèn lên tiếng:

-Ai chứ thằng Tư M này thì tui rành 6 câu luôn, vợ tui nói lúc ngoài chợ nó học tới lớp tú tài ba, tư gì đó.

Tôi nghe mà muốn bật ngửa vì Dượng 2 tôi đưa tôi tới tận cung trăng, chẳng qua là không có chó bắt mèo ăn c… thôi. Tôi học hành lỏm bỏm nhưng dạy học trò mấy lớp 1, 2 chắc là làm được:

-Dạ, chú bác có lòng thương thì cháu cũng ráng dạy cho tụi trẻ, nhưng dạy thì phải xin phép chính quyền chứ hả.

Anh Tư Hành nói:

-Xin phép gì, chính quyền là tui đây, tui chịu là xong, để tui lên xã nói một tiếng cho. Ngoài ra nếu chú mày chịu dạy cho bọn trẻ tui nói với xã miễn công tác cho.

 

Gì không biết chớ cái khoản miễn công tác là tôi chịu liền, nào giờ có cầm cuốc, cầm vá gì đâu mà một mình phải trị những 3 lớp đất, ngang 2m, dài 3m thì oải quá. Thế là tôi đồng ý.

-Nhưng biết trả lương cho thầy giáo sao đây ta? Dân mình ở đây còn nghèo quá mà.

Một vị lên tiếng nói, các vị khác nhao nhao bàn cách trả lương cho tôi. Ông Hai răng vàng tằng hắng:

-Mình không có tiền thì trả bằng lúa vậy, ở đây ăn thịt heo 1 ký tới mùa trả bằng 1 giạ lúa, thì mình tính cho thằng Tư cũng vậy vậy đi.

-Không được, ai đời tính chuyện ăn thịt heo với chuyện học hành, thôi tui tính như vầy các ông thấy được không: Chú Tư nó dạy một đứa hoc trò 6 tháng mình tính cho chú bằng 1 giạ lúa, cứ tính một lần 6 tháng như vậy, tới mùa mình trả lúa cho chú luôn thể.

 

Tôi nghe khoái quá, nhưng cũng có cái gọi là ý kiến:

-Cảm ơn chú bác đã cho cháu có việc làm, nhưng nếu đi dạy thì làm sao mần ruộng được.

Ông Tư Bồ đứng dậy cái rẹt nói:

-Chú mày mà làm ruộng khỉ mốc gì, có 4 công ruộng đất cày, chỉ có chế để cấy mà làm trật vuột hoài, chế phía trước phía sau cỏ ngóc đầu lên cười. Phần đó để cha con tao lo cho, chừng gần cấy cha con tao ra làm cái rẹt là xong ngay.

 

Thế là tôi trở thành thầy giáo bất đắc dĩ. Tôi ra nhà các cô giáo trước dạy ở đây tôi có quen mượn sách giáo khoa, thế là tôi cũng có đũ "tài liệu" để dạy học. Trường học chỉ là căn nhà lợp lá, trống trước trống sau, bàn ghế ọp ẹp bằng cây nhà lá vườn đóng tạm bợ, vậy mà chứa đến 4 lớp, 2 lớp sáng, 2 lớp chiều. Đường từ nhà tôi đến trường chỉ khoảng 300m, nhưng phải đi bằng xuồng vì không có đường bộ. Mỗi ngày con ông 6 Lành, 8 Dơn mang xuồng qua đón tôi đi dạy và đi học luôn. Đó cũng là dịp sau khi tan học chiều, tôi tập chèo xuồng, sau vài lần chèo xuồng quay mòng mòng và té xuống sông uống nước, tôi cũng tạm chèo được, sau này tôi còn dám chèo xuồng ra Cà Mau chơi nữa à, dù gặp tàu ghe trong bụng cứ run run sao ấy.

 

Trường có 4 lớp, tôi phân ra làm 2 buổi, sáng học hai lớp 1, 2. Chiều hai lớp 3, 4. Mỗi lớp chỉ lưa thưa hơn chục đứa, dạy một lượt 2 lớp, dạy lớp này, lớp kia ở không thì …dậy giặc, hết ném phấn với nhau thì tới xếp diều giấy phóng loạn xạ, mà chủ xị bọn này lại là con ông đại diện phụ huynh học sinh. Ông này nghe tôi mắng vốn bèn cấp cho tôi cây roi trúc để trị bọn quỷ sứ, nhưng cầm roi lên quơ quơ thì tụi nhóc im im được một chút, sau đó thì vẫn vậy. Tôi bèn nghĩ ra cách cho bài tập thật nhiều để tụi nhỏ không được ở không quậy quạng, nhưng tình hình xem ra cũng không khả quan cho lắm. Bó tay.

 

Không hiểu các cô giáo dạy trước tôi có kiểm tra không chứ đám học trò này…dốt nhiều quá. Có đứa học lớp ba, viết chữ rồng bay phượng múa, khi kêu lên bảng đọc bài thì…á khẩu, thì ra nó "vẽ" chữ cho giống trên bảng, trong sách, còn thì không biết đánh vần. Tôi đành phải kèm cho nó đánh vần từ abc lại.

 

Lớp 3, lớp 4 thì học trò lớn muốn bằng thầy, 17-18 tuổi là chuyện bình thường. Trong lớp 4 có thằng tên Lập học khá giỏi, hôm đó không thấy nó đi học, hỏi em nó học lớp 3, em nó cho hay:

-Hồi sáng này anh em đi…coi vợ. Chiều nay khi tan học ba em dặn mời thầy qua nhà nhậu chơi.

Chiều đó tôi qua nhà anh chị Hai Bồi - ba má của Lập. Lập hôm nay ăn mặc bảnh tỏn lắm, đầu tóc chải Bidăntin bóng mượt, chị Hai Bồi chạy ra đón tôi:

 

-Thầy giáo lại nhà tôi mừng quá, hồi sáng này tui với ba nó đi hỏi vợ cho thằng Lập ở dưới miệt Rạch Ráng. Con dâu tui ngon lắm nghen thầy, gạo trên sàng đó.

Tôi hỏi:

-Gạo trên sàng là sao hở chị Hai?

-Ờ…nghĩa là không có chỗ chê, mấy đứa ở đây tui coi giò cẳng rồi, toàn là thứ gạo lộn tấm hoặc là tấm thôi, không phải gạo.

 

Ý chị Hai nói là con dâu chị về nhan sắc, tướng tá, gia cảnh …trọn vẹn cả như gạo còn nguyên hột không bị sứt mẻ gì hết.

 

Hai tháng sau thằng Lập cưới vợ, hôm đám cưới nó đông người quá nên tôi không có dịp nhìn kỹ hạt gạo trên sàng của chi Hai Bồi. Một hôm xế chiều, tôi bơi xuồng lại nhà Lập định mua miếng thuốc gò, từ khi cưới vợ ba má nó cho nó ra riêng ở phía mé sông xeo xéo nhà tôi, thằng Lập mở cái quán nhỏ nhỏ cho vợ nó bán các thứ lặt vặt. Gặp vợ nó tôi hỏi:

-Thằng Lập đâu rồi không thấy vậy.

-Dạ, chào thầy giáo, trự Lập đi ra sau ruộng giăng lưới cá để mai có cá cho con đi bán.

-Trự …Lập nào, sao kêu nó bằng trự?

Vợ Lập cười khà khà:

-Ở xứ con người ta thường kêu như vậy đó, má con kêu ba con bằng trự nên con bắt chước.

Trời đất hồi cha sanh mẹ đẻ đến giờ tôi mới nghe vợ kêu chồng bằng trự, ngộ quá. Sẵn dịp vợ Lập mời ngồi chơi uống nước, tôi có dịp nhìn kỹ hạt gạo trên sàng của chị hai Bồi. Tướng người nhỏ nhắn, gương mặt cũng có duyên nhất là cái mũi hơi hếch lên một chút và đặc biệt là nói chuyện thì rốp rẻn lia lịa.

 

Khỏang tháng sau, buổi sáng vừa mở mắt nghe có tiếng ì xèo bên sông, tôi chạy ra coi thì thấy người ta tụ tập chỗ 2 cái mã cao nhiều lắm, vợ tôi hối tôi lấy xuồng qua sông coi có chuyện gì. Đến nơi tôi thấy cái mã lớn bị đào lên còn cái lổ trống lỏng, vợ chồng Lập liên tu bất tận nói cái gì đó không ai hiểu hết. Hỏi ra mới biết, tờ mờ sáng Lập đi thăm lưới, khi đến chỗ 2 cái mã thì thấy ai đó đã đào lên 1 cái, bèn chạy về báo cho lối xóm và ba má nó biết. Đang bàn tán ỏm tỏi thì ông Tư Hành cùng mấy anh du kích đi tới:

 

-Sao, sao rồi, đào cái mã nào vậy, ai thấy trước tiên, còn tụi mày, kêu bà con dang ra để giữ…hiện trường.

 

Sao khi xem xét kỹ lưỡng thì cái mã bị ai đó đào trong đêm, bỏ lại cái hố đen ngòm ngập nước, không biết có quan tài hay không nhưng trên bờ mã thấy có mấy miếng ván nhỏ mục nát. Anh Tư Hành nhìn dáo dác:

 

-Ba Cà Lăm đâu, dượng mày rành nghề…thợ mộc, nhảy xuống dưới mò xem có gì không.

 

Sau một hồi mò tìm, anh Ba Cà Lăm kêu mọi người kiếm cho anh cái rổ để xúc vì nước nhiều quá, anh lần lượt xúc từ trước ra sau quăng lên bờ một mớ sình đen ngòm, sau đó anh nhảy lên xúc mớ sình đó gạn gạn trong vũng nước cạnh bên, cuối cùng tìm được mấy miếng xương nhỏ xíu và 4 hột cườm đen, loại người xưa dùng làm chuỗi đeo ở cổ. Anh Tư Hành kêu anh du kích bỏ tất cả vô miếng lá chuối và nói:

 

-Giờ phải lập biên bản, nhưng lập ở đâu đây ta? Ai là người phát hiện đầu tiên, thằng Lập hả, vậy vô nhà mày lập biên bản nghen. Ủa có thầy giáo đây nữa hả, mượn thầy vô nhà làm biên bản dùm vụ này nghen.

 

Cả bọn lót tót đi vô nhà Lập, vợ nó rối rít nấu nước pha trà, Lập lấy miếng ván xuồng cũ kê lên cái khạp da bò cho tôi… làm bàn viết. Mọi người kẻ đứng, người ngồi bệt xuống đất chật cứng cả nhà. Sau khi hớp miếng nước trà thấm giọng, anh Tư Hành đứng lên nói:

 

-Vụ này quan trọng à nghen, hai cái mã này lúc mới tiếp thu mấy anh ở trển, bên bảo tàng gì đó có vô coi, ghi chép nhiều lắm. Thằng Lập mày thấy trước tiên, hiện trường cũng như nảy giờ hay có vàng bạc, gươm dáo gì nói thiệt nghen con.

 

Thằng Lập dảy nảy:

 

-Trời đất, chú tư nói vậy chết con rồi, con thấy sao để vậy rồi chạy la cho bà con nghe, con thề con mà có thấy vàng bạc, gươm đao gì đó cho con …

 

-Thôi thề thốt gì, dù sao mầy là người phát hiện trước tiên thì mày phải có…trách nhiệm. Chút nữa xong biên bản rồi thì đi theo thằng Xê du kích lên xã để mấy ổng làm việc. Thôi bà con ai biết chữ ký vô đây để kịp mang lên xã.

 

Vợ Lập nghe vậy khóc bù lu bù loa, kể lể van nài, nhưng anh Tư Hành nói:

 

-"Phép… bất dung thân", bây kêu tao bằng chú, chứ con tao như vầy tao cũng phải đưa lên xã thôi.

 

Chiều lại thấy Lập trên xã về đi ngang nhà tôi vẩy vẩy tay chào mà miệng cười méo xẹo. Tôi chưa có dịp lại nhà hỏi nó thì nghe nó được Công an thị xã mời lên làm việc, vợ nó đóng cửa nhà theo nó ra thị xã, chiều lại thấy nó về một mình không thấy Lập đâu. Mãi hôm sau mới thấy Lập có giang xuồng về ngang nhà, tôi kêu nó, nó quay mặt lại nở nụ cười bí xị. Từ đó tới sau không thấy nó đi học nữa.

 

Buổi sáng, đang dạy học, thấy anh Tư Hành cùng 2 người nữa ở xóm trên lội vô trường học của tôi, anh Tư ngoắc tôi ra gốc dừa, móc gói thuốc gò ra vấn 1 điếu thở phì phò:

 

-Thầy cho bọn nhỏ về sớm một bữa đi. Thầy đi với tôi vô nhà cậu Hai Ngà bàn công chuyện.

 

Sau khi vô nhà cậu hai Ngà, anh Tư cho tôi hay 2 người ở xóm trên này họ nói họ họ Mạc, có bà con với 2 cái mã cao đó, hàng năm thanh minh đều có ra cúng kiếng. Nay họ thấy 1 cái mã bị ăn trộm đào nên xin ý kiến của chính quyền cho họ cải táng về phần đất gia đình họ để tiện việc chăm sóc. Anh nói với tôi làm dùm cái tờ trình, trình lên xã với ý kiến đồng ý của anh.

 

Tuần sau xã cho hay cũng đồng ý vì sợ bị đào trộm nữa. Hôm cải táng, họ hàng hai ông đó ra đông lắm, có mang theo 1 con heo quay để cúng kiếng long trọng, bà con ở xóm tôi và chính quyền ấp cũng có mặt đông đủ. Lúc lấy cái quan tài lên thì vì quá lâu nên ván bị mục bung ra, trong quan tài trống trơn chỉ có nước lỏng bỏng, sau một hồi gạn lọc không thấy một miếng xương, chỉ có vài hột cườm và một cây lược cài đầu, chứng tỏ đây là phần mộ của một người đàn bà. Bà con ở xóm trên thấy vậy có vẻ ngỡ ngàng bèn gói ghém chiếc quan tài trống không lủi thủi mang về đất gia đình chôn cất.

 

Vụ việc 2 cái mã này là đề tài sôi nổi mỗi khi có sòng nhậu, người thì nói chắc có vàng bạc nhiều lắm nên ăn trộm mới đào mã, người thì nói chắc là mã của quan quân gì đây, khi chết chắc có chôn theo gương đao được dát bằng vàng. Nhất là khi nhậu nhà trự Lập, lúc sau này nó có vẻ buồn nên rũ ren nhậu hoài, có cha sau khi xỉn xỉn kêu Lập vô trong buồng lấy cây gươm vàng ra múa cho anh em coi chơi làm thằng Lập dảy nảy: "Mấy cha nói chơi có bữa tôi ở tù rục xương luôn, nói chơi gì ác quá vậy". Còn vợ Lập nghe ai nhắc chuyện này thì phân bua liên tu bất tận nghe phát mệt.

 

Hôm anh Tư Hành ghé tôi nhậu chơi, sau khi làm sương sương vài ly anh nói:

 

-Chú mày nghĩ sao về vụ 2 cái mã này? Cái mã bị đào trộm trước tao không dám quả quyết là ăn trộm có tìm gì được trong đó không, còn cái mã sau chú thấy đó, trống trơn hà. Tao biết toỏng chuyện của mấy lão xóm trên, họ thấy ăn trộm đào mã nghĩ là có vàng vòng châu báu gì đó, nên nhìn bà con với hai cái mã này xem có kiếm được cơm cháo gì không, đến lúc thấy không có gì bèn tui nghĩu cuốn gói ra về.. khà khà…Làm tốn con heo quay và phải mang cái quan tài trống không về nhà chôn cất.

 

Tôi hỏi:

-Theo anh thì hai cái mã này là của đàn ông hay đàn bà và có phải của quan quyền gì lúc xưa không?

-Chắc mẻm là đàn bà rồi, chú mày không thấy có mấy hột cườm và cái lược cài đầu đó sao? Đàn ông gì mà xài các thứ đó. Còn mã cao là vì vùng đất này thấp nên họ bồi đắp cho cao để không mất vết tích.

-Sao bác Hai bên nhà nói là của hai ông quan xưa, ổng nói ông thầy ổng xuống chơi, khi ngủ thấy có hai ông quan gươm mũ chỉnh tề qua…chào ổng.

-Ối. hơi đâu mà mày nghe ông Hai đó, ổng nói để tăng uy tín của ông thầy và cái đạo gì đó của ổng.

 

Tôi cũng không quan tâm lắm về việc hai cá mã này, buổi sáng đang uống cà phê thì Bác Hai Ngà qua chơi, tôi rót cà phê mời bác, chợt nhớ chuyện hai cái mã, tôi hỏi bác:

-Bữa hôm xem cái mã bị ăn trộm đào và cái mã lấy cốt, ai cũng nói là của đàn bà phải không bác.

-Ừa…sao kỳ vậy cà, hai cái mã đó linh lắm mà.

Từ đó tôi không nghe Bác nhắc nhỡ gì về chuyện này nữa.

 

Hai năm sau tôi trở về thị xã Cà Mau sinh sống. Một hôm vì vợ tôi mới sanh đứa con thứ nhì, tôi đi xuống chợ phường 1 định mua con cá rô về kho tộ cho vợ tôi ăn ngon miệng, đang xách cái giỏ bàng tòn ten tìm cá mua thì nghe tiếng kêu:

-Thầy giáo…thầy giáo, thiếm tư đâu mà thầy đi chợ zvậy.

Quay lại thì thấy vợ thằng Lập, cái hột gạo trên sàng của chị Hai Bồi:

-Ủa mấy đứa bán cá hả, thiếm tư sanh nên chú đi chợ định mua cá rô về kho ăn.

-Xời ơi, lâu quá không gặp thầy, hồi sáng có mấy con cá rô mập ú, con bán hết trọi rồi. Thôi còn mấy con cá trê vàng nè, thầy lấy dìa kho cho thiếm tư ăn, cá trê kho tiêu đàn bà sanh ăn vô ấm lắm.

 

Miệng nói tay dằn cái giỏ xách của tôi, trút vô mấy con cái trê vàng lườm. Tôi không thể từ chối được nên đành phải nói một câu xã giao:

 

-Thằng Lập dạo này ra sao rồi.

 

-Úi, trự Lập giờ nhậu hoài thầy ơi, nhậu riết rồi sanh tật, có ba hột vô lấy dây chuối cột ngang eo ếch, tay quơ quơ cây chổi chà, tay vuốt càm hát: Tuốt lưỡi gươm vàng ư…ư… Trời ơi, có mấy con cá con cho thầy mà, tiền bạc gì. Ủa mà thiếm tư sanh con trai hay con gái, mấy ký lô zvậy. Thôi con dìa nghen cho kịp xuồng với người ta. Tội nghiệp, đàn ông mà đi chợ đi búa người ta cười chết, thôi con dìa nghen…

 

07-10-2007

ManTran
Số lần đọc: 1890
Ngày đăng: 07.12.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Xôn xao nắng chiều - Đổ Thị Hồng Vân
Bảy sắc cầu vồng - Trần Văn Bạn
Trái tim con rồng đá - Trần Trung Sáng
Hà Chính - Vũ Ngọc Tiến
Song nguyệt - Trần Lệ Thường
Bắt chồng - Đỗ Trọng Phụng
Lưỡng tính - Trần Văn Bạn
Mang nặng kiếp người - Hội An
Nhà sáng tác - Đổ Thị Hồng Vân
Đêm pháo hoa - Trần Lệ Thường
Cùng một tác giả
Velo Solex (truyện ngắn)
Trận đòn…… (truyện ngắn)
Trự lập (truyện ngắn)