Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
826
116.639.861
 
Tự Truyện Osho 9
Đỗ Tư Nghĩa

 

XIX

 

PHẬT ZORBA:    HỮU THỂ NGƯỜI TOÀN BỘ [1]

 

Hãy nhìn đời bằng ánh mắt đùa vui  [take life playfully] –  rồi bạn có thể có cả hai thế giới một lượt. Bạn vừa có cái bánh cake, lại vừa ăn nó. Và đó là một nghệ thuật thực thụ! Thế giới này và thế giới kia, âm thanh và sự im lặng, tình yêu và thiền định, có mặt với mọi người, ở trong tương quan, và ở một mình. Tất cả những điều này phải được sống cùng nhau trong một loại đồng thời; chỉ lúc đó, bạn mới sẽ biết cái chiều sâu nhất của bản thể bạn và chiều cao tận cùng của bản thể bạn.

 

Một người luật sư đi tới bờ mép của cái hầm mỏ, nơi mà một tốp thợ đang làm việc và gọi tên của Timothy O' Toole.

 

" Ai đang cần gặp tôi?" một giọng nói ồ ồ dò hỏi.

 

" Ông Toole ạ," người luật sư hỏi, " có phải ông đến từ Castlebar, quận Mayo?"

 

" Đúng vậy."

 

" Và mẹ ông tên là Bridget và cha ông, Michael?"

" Đúng."

 

" Vậy thì nhiệm vụ của tôi," người luật sư nói, " là thông báo cho ông, O' Toole ạ,  rằng bà cô Mary của ông đã mất tại Iowa, để lại cho ông một bất động sản trị giá hai trăm ngàn Mỹ kim."

Có một khoảng im lặng ngắn bên dưới, và rồi một sự rung chuyển náo loạn.

 

" Ông đến chưa vậy, hả  ông O' Toole ?" người luật sư gọi xuống.

 

" Đợi một phút," một giọng trả lời rống lên.  " Tôi vừa mới ngừng lại để cho đo ván gã đốc công."

Chỉ cần sáu tháng ăn chơi phóng đãng, cũng đủ để O' Toole xài hết hai trăm ngàn Mỹ kim. Nỗ lực chủ yếu của anh ta là, thỏa mãn một cơn khát to lớn, cơn khát thừa kế. Rồi anh ta trở lại công việc của mình. Và ở đó, chẳng bao lâu sau,  người luật sư lại tìm kiếm anh ta.

 

" Lần này là Bác Patric của ông,  O' Toole ạ," người luật sư giải thích. " Ông ta đã chết tại Texas và để lại cho ông bốn trăm ngàn Mỹ kim."

 

O' Toole tựa một cách nặng nề lên cái cuốc chim của anh ta và lắc đầu một cách chán nản.

 

" Tôi không nghĩ rằng tôi có thể nhận nó," anh ta tuyên bố. "Tôi không còn khỏe như trước đây, và tôi không tin  rằng tôi có thể xài hết món tiền ấy mà vẫn còn sống."

 

Đó là cái đã xảy ra tại phương Tây. Con người tại phương Tây đã thành công trong việc đạt tới tất cả cái sự giàu có mà toàn nhân loại đã từng khao khát qua nhiều nhiều thời đại. Phương Tây đã thành công về mặt vật chất, đã trở nên giàu có và bây giờ nó đang quá chán chường, quá mệt mỏi. Cuộc hành trình đã tước mất toàn bộ linh hồn nó. Cuộc hành trình đã "kết thúc" con người phương Tây. Bề ngoài, mọi thứ đều có thể đạt được, nhưng sự tiếp xúc với cái bên trong [the inner] bị đánh mất. Bây giờ mọi thứ mà con người cần đều có thể đạt được,  nhưng chính con người thì không còn ở đó. Những vật sở hữu thì ở đó, nhưng con người không đang cảm thấy giàu có chút nào; trái lại, con người đang cảm thấy bị bần cùng hóa, rất nghèo nàn.

 

Hãy nghĩ về sự nghịch lý này: Khi bạn giàu có bên ngoài, thì chỉ lúc đó bạn mới trở nên nhận biết về sự nghèo nàn bên trong – qua sự tương phản.  Khi bạn nghèo bên ngoài, bạn không bao giờ trở nên nhận biết về sự nghèo nàn bên trong, bởi vì không có sự tương phản nào. Bạn viết với phấn trắng trên bảng đen, không phải trên  tấm bảng trắng. Tại sao? Bởi vì chỉ trên bảng đen nó mới hiện ra rõ ràng. Sự tương phải được cần đến.

 

Khi bạn giàu có bên ngoài, thì bỗng nhiên một sự nhận biết sâu sắc xảy ra, rằng: "Bên trong tôi nghèo, tôi là một kẻ ăn xin." Và bây giờ, một trạng thái vô hy vọng đến như một cái bóng: " Mọi cái mà chúng ta nghĩ về đều đã được đạt tới – mọi tưởng tượng và "mơ tưởng" [fantasies][2] đều được thực hiện – và không có gì xảy ra từ nó, không có sự hài lòng, không có phúc lạc nào cả."

Phương Tây hoang mang. Từ sự hoang mang này, một ước vọng lớn khởi lên: làm thế nào để một lần nữa tiếp xúc với bản ngã của mình.

 

Thiền định không là gì khác hơn ngoài việc cắm rễ một lần nữa vào trong đời sống nội tâm, vào trong tính nội tại [interiority] của bạn. Do vậy,  phương Tây đang trở nên rất quan tâm đến thiền định và rất quan tâm đến những kho báu của phương Đông.

 

Phương Đông cũng quan tâm đến thiền định khi phương Đông giàu có; điều này phải được hiểu. Đó là lý do tại sao tôi không chống lại của cải và tôi không nghĩ rằng sự nghèo nàn có một chút tính tâm linh nào trong nó. Tôi hoàn toàn chống lại sự nghèo nàn, bởi vì bất cứ khi nào một đất nước trở nên nghèo, nó đánh mất tất cả thiền định, tất cả những nỗ lực tâm linh. Bất cứ khi nào một đất nước trở nên nghèo bên ngoài, nó không thể nhận biết về sự nghèo nàn bên trong.

 

Đó là lý do tại sao trên những khuôn mặt Ấn Độ, bạn có thể thấy một loại mãn nguyện mà không được tìm thấy tại phương Tây. Nó không phải là sự mãn nguyện thực thụ; nó chỉ là trạng thái bất thức [unawareness] về sự nghèo nàn nội tâm. Những người Ấn Độ nghĩ, " Hãy nhìn vào sự lo âu, sự thống khổ, và sự căng thẳng trên những khuôn mặt phương Tây. Mặc dù chúng ta nghèo, chúng ta rất mãn nguyện bên trong." Đó là sự ngây ngô, vớ vẩn cực kỳ; thực ra, họ không mãn nguyện. Tôi đã từng quan sát hằng ngàn người – họ không mãn nguyện. Một điều chắc chắn đúng, là họ không nhận biết về sự bất mãn, bởi vì để nhận biết sự bất mãn, thì phải cần đến sự giàu có bên ngoài. Không có sự giàu có bên ngoài, thì không ai trở nên nhận biết sự bất mãn bên trong của họ – và có thừa  những chứng cớ về điều đó.

 

Tất cả những avatar của những người Hindu đều là vua hay là con trai của vua. Tất cả những tirtankara của đạo Jaina, những đạo sư Jaina, đều là vua; Đức Phật cũng vậy. Tất cả ba truyền thống lớn của Ấn Độ đã cung cấp đầy đủ chứng cứ. Tại sao Đức Phật trở nên bất mãn, tại sao Ngài bắt đầu một cuộc tìm kiếm thiền định? Bởi vì Ngài giàu có. Ngài sống trong xa hoa; Ngài sống với tất cả mọi tiện nghi vật chất.  Bỗng nhiên Ngài trở nên nhận biết. Và Ngài còn khá trẻ khi nó xảy ra; Ngài chỉ mới 29 tuổi khi Ngài trở nên nhận biết rằng có một lỗ hổng đen bên trong. Ánh sáng ở bên ngoài; do vậy,  nó cho thấy bóng tối bên trong của bạn. Chỉ một chút bẩn trên một sơ mi trắng, và nó hiện rõ. Đó là cái đã xảy ra. Ngài trốn thoát khỏi cung điện.

 

Đó là cái đã xảy ra cho Mahavira; Ngài cũng trốn khỏi một cung điện. Nó không đang xảy ra cho một kẻ hành khất. Cũng có những kẻ hành khất trong thời của Đức Phật. Thật ra, theo truyền thuyết, Đức Phật từ bỏ thế gian khi Ngài thấy một kẻ hành khất lần đầu tiên, và một ông già, một tử thi, và một sannyasin. Những người ăn xin có mặt ở đó.

 

Đức Phật [thái tử Siddartha. ĐTN] [3] sắp tham dự vào một lễ hội dành cho giới trẻ,  chàng phải khánh thành nó. Từ chiếc kim xa [golden chariot] [4] của mình, chàng thấy một kẻ hành khất – lần đầu tiên, bởi vì phụ vương chàng đã xoay xở suốt đời ông, sao cho Thái tử sẽ không bao giờ thấy một kẻ hành khất, hay một người bệnh, hay một người chết. Bởi vì khi Ngài đản sanh, những nhà chiêm tinh đã nói với vua cha: "  Nếu thái tử thấy những người này,  ngay lập tức thái tử sẽ từ bỏ thế gian, cho nên, đừng cho phép thái tử  thấy họ." Do vậy, bất cứ nơi nào Thái tử  thường đi tới, những kẻ hành khất được di chuyển đi nơi khác.  Những người già sẽ bị di chuyển,  hay bị buộc phải ở trong nhà họ, không được ra ngoài. Ngay trong khu vườn của Thái tử,  không chiếc lá chết nào được cho phép. Mọi lá chết đều được thu dọn trong đêm, do vậy, vào buổi sáng khi Thái tử đi ra vườn, chàng chỉ có thể thấy sự trẻ trung, những chiếc lá non, những bông hoa mơn mởn.  Chàng chưa bao giờ thấy một bông hoa héo tàn.

 

Khi chàng thấy một kẻ hành khất lần đầu tiên … Và câu chuyện ngụ ngôn này thật đẹp; nó nói rằng,  chư thiên trở nên lo lắng; "Vua cha đang quá thành công.  29 năm đã trôi qua và Thái tử có năng lực trở nên một trong những kẻ chứng ngộ nhất trên thế gian." Chư thiên trở nên lo lắng: "Phụ vương chàng xoay xở quá thành công, đến mức có thể chàng sẽ không bao giờ gặp một kẻ hành khất hay một người già; chàng có thể bỏ lỡ."  Do vậy,  một vị thần hóa thành một kẻ hành khất, một vị  khác,  một ông già, một vị  khác, một người chết, và một vị  khác,  một sannyasin.

 

Do vậy, trong thời của Đức Phật, những người hành khất có mặt ở đó – nhưng họ không từ bỏ thế gian. Họ không có gì để từ bỏ; họ mãn nguyện. Nhưng Thái tử Siddharta trở nên bất mãn.

 

Xưa kia, khi Ấn Độ giàu có,  nhiều người quan tâm đến thiền định; thật vậy, tất cả mọi người đều quan tâm đến thiền định. Chẳng sớm thì muộn, họ buộc phải bắt đầu nghĩ về mặt trăng, về cái "bên kia" [the beyond],[5] về cái bên trong. Bây giờ đất nước nghèo, quá nghèo đến mức không có sự tương phản nào giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Cái bên trong nghèo, cái bên ngoài cũng nghèo. Cái bên trong và cái bên ngoài ở trong sự hòa điệu hoàn hảo – cả hai đều nghèo! Đó là lý do tại sao bạn thấy một loại mãn nguyện trên khuôn mặt người Ấn, đó không phải là sự mãn nguyện thực thụ. Và do vậy,  người ta đã trở nên quen với việc nghĩ rằng sự nghèo nàn có cái gì tâm linh trong nó.

 

Sự nghèo nàn được thờ phụng tại Ấn Độ. Đó là một trong những lý do tại sao tôi bị kết án một cách liên tục, bởi vì tôi không ủng hộ bất cứ sự nghèo nàn nào. Sự nghèo nàn không phải là tính tâm linh, sự nghèo nàn là nguyên nhân gây ra sự biến mất của tính tâm linh.

 

Tôi muốn toàn thế giới trở nên giàu có càng nhiều càng tốt. Người ta càng giàu có, họ càng trở nên tâm linh. Họ sẽ phải [trở nên tâm linh], họ sẽ không thể tránh nó. Và chỉ khi đó sự mãn nguyện thực thụ mới có thể khởi lên.

 

Khi bạn có thể tạo ra sự giàu có bên trong, thì sự hòa điệu lại xuất hiện – sự giàu có bên ngoài gặp sự giàu có bên trong – rồi, có sự mãn nguyện thực thụ. Khi sự nghèo nàn bên ngoài gặp sự nghèo nàn bên trong, thì có sự mãn nguyện giả dối. Sự hòa điệu là khả dĩ trong hai  cách này. Cái bên ngoài và cái bên trong hòa điệu, và người ta cảm thấy mãn nguyện. Ấn Độ có vẻ mãn nguyện bởi vì có sự nghèo nàn ở hai phía của hàng rào.  Có sự hòa điệu hoàn hảo, cái bên trong hòa điệu với cái bên ngoài; nhưng đây là sự mãn nguyện xấu xa, nó thực sự thiếu sự sống, thiếu sinh khí. Đây là một loại mãn nguyện nhạt phèo, chán ngắt.

 

Phương Tây bị buộc phải trở nên quan tâm đến thiền định, không có cách nào để tránh nó. Đó là lý do tại sao Kytô giáo đang đánh mất ảnh hưởng của nó trên tâm trí phương Tây, bởi vì Kytô giáo chưa phát triển khoa học thiền định trên bất cứ phương diện nào. Nó vẫn còn là một tôn giáo rất tầm thường [mediocre];[6] Do Thái giáo cũng vậy.

 

Phương Tây nghèo nàn khi những tôn giáo này được sinh ra, đó là lý do. Cho tới lúc đó, phương Tây đã sống trong nghèo nàn. Khi phương Đông giàu có, thì phương Tây nghèo nàn. Do Thái giáo, Kytô giáo, và Hồi giáo – tất cả ba tôn giáo phi Ấn Độ này, đều được sinh ra trong sự nghèo nàn. Chúng không thể phát triển những kỹ thuật thiền định, không có nhu cầu. Chúng vẫn còn là những tôn giáo của người nghèo. [7]

 

Bây giờ phương Tây đã trở nên giàu và có một chênh lệch, cách biệt.[8]

 

Những tôn giáo phương Tây đều được sinh ra trong sự nghèo khó; chúng không có gì để tặng cho những người giàu. Đối với những người giàu, chúng nom có vẻ trẻ con, chúng không mang lại thỏa mãn. Chúng không thể làm thỏa mãn. Những tôn giáo phương Đông được sinh ra trong sự giàu có; đó là lý do tại sao tâm trí phương Tây đang trở nên ngày càng quan tâm đến những tôn giáo phương Đông. [9] Vâng, tôn giáo của Đức Phật đang có ảnh hưởng lớn; Zen đang lan tràn như lửa cháy rừng.  Tại sao? Nó được sinh ra từ sự giàu có.

 

Có một sự tương đồng to lớn giữa tâm lý học phương Tây của con người hiện đại và tâm lý học của Phật giáo. Phương Tây ở trong trạng thái tương tự như [của] Đức Phật khi Ngài trở nên quan tâm đến thiền định. Đó là cuộc tìm kiếm của một người giàu. Và cũng là trường hợp của Ấn Độ giáo, cũng là trường hợp của Jaina giáo. Ba tôn giáo lớn này của Ấn Độ đều được sinh ra từ sự giàu có; do vậy, phương Tây nhất thiết phải bị hấp dẫn bởi những tôn giáo phương Đông này.

Phương Đông đang mất liên hệ với những tôn giáo của chính mình. Ấn Độ không thể nào hiểu được Đức Phật – nó là một đất nước nghèo. Thực ra, những người Ấn nghèo đang cải đạo sang Kytô giáo. Những người Mỹ giàu đang cải đạo sang Phật giáo, Ấn Độ giáo, Vedanta – và những người "tiện dân",[10] những người nghèo nhất của Ấn Độ, đang trở thành những người Kytô. Bạn có thấy cái điểm then chốt này không? Những tôn giáo này có một hấp dẫn nào đó đối với người nghèo. Nhưng chúng không có tương lai nào cả, bởi vì không sớm thì muộn, toàn thế giới sẽ trở nên giàu có.

 

Tôi không ca ngợi sự nghèo nàn, tôi không kính trọng sự nghèo nàn. Con người phải được hưởng cả hai loại giàu có. Tại sao không cả hai? Khoa học đã phát triển kỹ thuật làm cho bạn giàu có bên trong: đó là Yoga,  Mật tông,  Lão giáo, đạo Sufi, đạo Hassidi – có những kỹ thuật về cái bên trong.

 

Sau đây là một câu chuyện:

 

Nhân vật trung tâm của câu chuyện này là một trong những người chấp nhận mọi sự xảy ra như là sự biểu hiện của quyền lực thiêng liêng.

Ông ta nói, việc tra vấn những hành động của "thiên ý" [divine providence][11] không phải là việc của ông.

 

Suốt đời mình, ông gặp toàn bất hạnh, nhưng ông chưa một lần than van. Ông kết hôn, và vợ ông chạy theo người làm mướn. Ông có một con gái, và đứa con gái bị một tên vô lại lường gạt. Ông có một đứa con trai, và nó bị hành hình. Một trận hỏa hoạn thiêu cháy vựa lúa của ông, một trận cuồng phong thổi bay ngôi nhà của ông, một trận bão tuyết hủy hoại mùa màng của ông, và người chủ ngân hàng tịch biên mọi tài sản cầm cố của ông, lấy đi nông trại của ông. Thế nhưng, cứ mỗi cú đánh của bất hạnh, ông quỳ xuống và tạ ơn "Thượng đế Toàn Năng về lòng xót thương vô hạn của Ngài."

 

Sau một thời gian, không đồng xu dính túi, nhưng vẫn tuân phục những "sắc lệnh"[12] từ trên cao, ông vào tá túc trong một trại tế bần vùng quê. Một hôm người giám thị phái ông ra ngoài để cày một cánh đồng khoai tây. Một cơn bão sấm nổi lên, nhưng khi nó đi ngang qua ông, thì, không báo trước, một lưỡi sét bổ xuống từ bầu trời. Nó làm chảy cái lưỡi cày, lột hết quần áo của ông, làm râu ông cháy xém, và khắc vào tấm lưng trần của ông với những chữ đầu [initials][13] tên của một người chăn bò vùng lân cận, và ném ông băng qua một hàng rào kẽm gai.

 

ông tự mình khẳng định:

" Lạy Chúa," ông nói, " điều này đang trở nên hoàn toàn lố bịch!"

 

Đây là tình huống của phương Đông: " Điều này đang đi tới chỗ hoàn toàn lố bịch!" Nhưng phương Đông vẫn tiếp tục cám ơn Thượng đế, tiếp tục cảm thấy biết ơn. Không có gì để cảm thấy biết ơn nữa! Phương Đông đang cực kỳ nghèo nàn, bệnh hoạn, đói khát; không có gì để biết ơn. Nhưng phương Đông đã quên cái cách để đòi hỏi quyền lợi của mình,  phương Đông đã quên cái cách để làm bất cứ cái gì để cải thiện tình trạng của nó.

Do vậy, phương Đông không thể thiền định. Phương Đông hầu như đang sống trong một loại "vô ý thức" [unconsciousness].[14] Nó quá đói để mà thiền định, quá nghèo để mà cầu nguyện. Mối quan tâm duy nhất của nó là bánh mì, chỗ ở, y phục; cho nên, khi nhà truyền giáo Kytô đến và mở một bệnh viện hay một trường học, thì những người Ấn Độ rất cảm kích – đây là "tính tâm linh." Khi tôi khởi sự dạy về thiền định, họ không quan tâm – không những không quan tâm, mà họ còn chống lại nó: " Đây là loại tâm linh tính gì thế?" Và tôi hiểu – họ cần bánh mì, họ cần chỗ ở, họ cần y phục. Nhưng họ đang khổ bởi vì tâm trí họ. Một mặt, họ cần bánh mì, chỗ ở, y phục, những ngôi nhà tốt hơn, đường sá tốt hơn; và mặt khác, họ tiếp tục thờ phụng sự nghèo nàn. Họ ở trong cái tình trạng "một cổ hai tròng."

 

Phương Đông chưa thể thiền định. Trước hết, nó cần khoa học kỹ thuật để làm cho nó khá hơn một chút về vật chất. Y như phương Tây cần kỹ thuật về tôn giáo, phương Đông cần kỹ thuật về khoa học.

 

Và tôi hoàn toàn ủng hộ một thế giới, nơi mà phương Tây có thể thỏa mãn những nhu cầu của phương Đông, và phương Đông có thể thỏa mãn những nhu cầu của phương Tây. Phương Đông và phương Tây đã sống tách biệt khá lâu; không còn cần như vậy nữa. Phương Đông không còn nên là phương Đông, và phương Tây không còn nên là phương Tây nữa. Chúng ta đã đi tới cái khoảnh khắc "sinh tử" [critical][15] khi mà mà toàn bộ trái đất có thể trở thành một – nên trở thành một – bởi vì nó chỉ có thể sống sót nếu nó trở thành một.

 

Những tháng ngày khi mà thế giới phân chia ra thành những dân tộc đã qua, những ngày của sự phân chia đã qua, những ngày của những nhà chính trị đã qua. Chúng ta đang di chuyển trong một thế giới hết sức mới, một giai đoạn[16] mới của nhân loại – trong cái giai đoạn mới này,  chỉ có một thế giới độc nhất, chỉ có một nhân loại độc nhất. Và rồi, sẽ có một sự phóng thích năng lượng cực kỳ lớn.

 

Phương Đông có những kho báu, những kỹ thuật tôn giáo, và phương Tây có những kho báu, những kỹ thuật khoa học. Và nếu chúng có thể gặp gỡ, thì chính thế giới này sẽ có thể trở thành một thiên đường. Bây giờ không cần cầu xin một thế giới khác; chúng ta có khả năng tạo ra thiên đường trên trái đất này, lần đầu tiên. Và nếu chúng ta không tạo ra nó, thì ngoài chúng ta, không ai khác chịu trách nhiệm.

 

Tôi ủng hộ một thế giới độc nhất, một nhân loại độc nhất, và cuối cùng, một khoa học độc nhất mà sẽ chăm sóc cái bên ngoài và cái bên trong, cả hai.

 

Đó là cái mà tôi đang cố làm ở đây. Nó là một cuộc gặp gỡ giữa Đông và Tây; nó là cái tử cung nơi mà một nhân loại mới [17] có thể được thai nghén, được sinh ra đời.

 

Đây là những "đối cực" [polarities][18] trong cuộc sống, thiền định và tình yêu – đây là cái "đối cực" tối hậu.

 

Cái toàn bộ của cuộc sống gồm có những đối cực: cái tích cực và cái tiêu cực, sự ra đời và sự chết, đàn ông và đàn bà, ngày và đêm, mùa hạ và mùa đông. Cái toàn bộ của cuộc sống bao gồm  những đối cực. Nhưng những đối cực đó không chỉ là những đối cực, chúng còn là những cái bổ sung cho nhau. Chúng đang giúp nhau, chúng đang hỗ trợ nhau.

 

Chúng giống như những viên gạch của một cổng vòm cung.  Trong một vòm cung, những viên gạch phải được sắp xếp dựa vào nhau. Chúng nom có vẻ chống lại nhau, nhưng nhờ đối nghịch với nhau mà cái vòm cung được xây lên, đứng vững được. Sức mạnh của cái vòm cung tùy thuộc vào cái đối cực của những viên gạch được xếp đối nghịch nhau.

 

Đây là cái đối cực tối hậu: thiền định có nghĩa là nghệ thuật ở một mình, và tình yêu có nghĩa là nghệ thuật ở cùng nhau. Con người toàn bộ là người có khả năng di chuyển từ cái này sang cái kia càng dễ dàng càng tốt. Nó hệt như việc thở vào và thở ra – không có khó khăn nào. Chúng đối nghịch nhau – khi bạn thở vào có một tiến trình, và khi bạn thở ra, cái tiến trình thì ngược lại. Nhưng việc thở vào và thở ra làm thành một hơi thở hoàn chỉnh.

Trong thiền định, bạn thở vào, trong tình yêu bạn thở ra. Và với tình yêu và thiền định cùng nhau, hơi thở của bạn là hoàn chỉnh, trọn vẹn,  toàn bộ.

 

Trong nhiều thế kỷ, những tôn giáo đã cố đạt tới một cực, loại trừ cực kia. Có những tôn giáo của thiền định, thí dụ, Jaina giáo, Phật giáo – chúng là những tôn giáo thiền định, chúng có gốc rễ trong thiền định. Và có những tôn giáo bhakti, những tôn giáo của sùng kính: đạo Sufi, Hassidi – chúng có gốc rễ trong tình yêu. Một tôn giáo có gốc rễ trong tình yêu cần Thượng đế như là "tha thể"  [the other][19] để yêu, để cầu nguyện.  Không có một Thượng Đế, một tôn giáo của tình yêu không thể tồn tại, nó là không thể quan niệm được – bạn cần một đối tượng của tình yêu. Nhưng một tôn giáo của thiền định thì có thể tồn tại mà không có khái niệm về Thượng đế; cái giả thiết đó có thể được bỏ đi. Do vậy,  Phật giáo và Jaina giáo không tin vào bất cứ Thượng đế nào. Không cần một "tha thể". Bạn chỉ cần biết cách ở một mình, biết cách im lặng, tĩnh lặng,  hoàn toàn bình thản, và lặng lẽ bên trong chính bạn. "Tha thể" phải hoàn toàn được bỏ đi, quên đi. Do vậy,  đây là những tôn giáo không Thượng đế.

 

Khi lần đầu tiên những nhà thần học phương Tây [tình cờ] gặp Phật giáo và Jaina giáo, họ hết sức thắc mắc: làm thế nào gọi những triết học phi Thượng đế này là những tôn giáo? Chúng có thể được gọi là những triết học, nhưng làm sao gọi chúng là tôn giáo được? Thật khó quan niệm được với họ, bởi vì truyền thống Do Thái giáo và Kytô giáo nghĩ rằng muốn có tính tôn giáo, thì Thượng đế là giả thiết cốt yếu nhất. Con người tôn giáo là người  "sợ-Thượng đế, [God-fearing]" và những người này nói rằng không có Thượng đế, do vậy,  không có vấn đề sợ Thượng đế.

 

Tại phương Tây, trong hằng ngàn năm, người ta vẫn nghĩ rằng, người nào không tin vào Thượng đế, là một kẻ vô thần, y không phải là một người tôn giáo. Nhưng Đức Phật thì vô thần và tôn giáo. Điều đó rất kỳ lạ đối với những người phương Tây, bởi vì họ không hề nhận biết rằng, có những tôn giáo có gốc rễ trong thiền định.

 

Và điều tương tự cũng đúng về những người theo Phật và Mahavira. Họ cười nhạo sự ngu xuẩn của những tôn giáo khác vốn tin vào Thượng đế, bởi vì toàn bộ ý tưởng đó là phi lý. Nó chỉ là sự hão huyền [fantasy],[20] tưởng tượng, không có gì khác; nó là một sự phóng chiếu. Nhưng đối với tôi, cả hai đều cùng đúng.

 

Sự hiểu biết của tôi thì không có gốc rễ trong một cực; sự hiểu biết của tôi thì lỏng, uyển chuyển [fluid].[21] Tôi đã nếm chân lý từ cả hai phía: tôi đã yêu một cách toàn bộ và tôi đã thiền định một cách toàn bộ. Và đây là kinh nghiệm của tôi: rằng một người chỉ toàn bộ khi y đã biết cả hai. Nếu không thế, y vẫn còn một nửa, một cái gì đó còn thiếu bên trong y.

 

Đức Phật là một nửa – Jesus cũng vậy.  Jesus biết tình yêu là gì, Phật biết thiền định là gì, nhưng nếu họ gặp nhau, họ sẽ không thể nào truyền thông với nhau. Họ sẽ không hiểu ngôn ngữ của nhau. Jesus sẽ nói về vương quốc của Thượng đế, và Đức Phật sẽ bắt đầu cười: " Bạn đang nói về cái vớ vẩn gì thế? Vương quốc của Thượng đế?" Đức Phật sẽ chỉ nói, " Sự chấm dứt của cái tôi, sự biến mất của cái tôi." Và Jesus sẽ nói, " Sự biến mất của cái tôi? Sự chấm dứt của cái tôi? Cái đó là tự vẫn, sự tự vẫn tối hậu. Đây là loại tôn giáo gì vậy? Hãy nói về cái tôi tối cao!"

 

Họ sẽ không hiểu những lời nói của nhau. Nếu họ từng gặp nhau, họ sẽ cần một người giống như tôi để thông dịch; nếu không thế, không thể có sự truyền thông nào giữa họ. Và tôi sẽ phải thông dịch sao cho tôi sẽ "không trung thực" [untrue][22] với cả hai! Jesus sẽ nói, "vương quốc của Thượng đế" và tôi sẽ dịch nó như là "niết bàn"  – rồi Đức Phật sẽ hiểu. Phật sẽ nói " niết bàn", và tôi sẽ dịch cho Jesus là "vương quốc của Thượng đế" – rồi thì Ngài sẽ hiểu.

 

Bây giờ nhân loại cần một cái nhìn toàn bộ. Chúng ta đã sống với tầm nhìn một nửa quá lâu. Nó là một sự cần thiết [tất yếu] của quá khứ, nhưng bây giờ con người đã tới tuổi thành niên. Những sannyasin của tôi phải chứng minh rằng, họ có thể thiền định và cầu nguyện cùng một lúc,  rằng họ có thể thiền định và yêu cùng một lúc,  rằng họ có thể im lặng như có thể và họ có thể nhảy múa và lễ hội [23] nhiều như có thể. Sự im lặng của họ phải trở thành lễ hội của họ, và lễ hội của họ phải trở thành sự im lặng của họ. Tôi đang giao cho họ nhiệm vụ khó khăn nhất đã từng được giao cho bất cứ đệ tử nào, bởi vì đây là cuộc gặp gỡ của những đối nghịch.

Và trong cuộc gặp gỡ đó,  tất cả mọi đối nghịch khác sẽ chảy tan và trở thành một: Đông và Tây, đàn ông và đàn bà, vật chất và ý thức, thế giới này và thế giới kia, cuộc sống và cái chết. Mọi đối nghịch sẽ gặp gỡ và hợp nhất thông qua cuộc gặp gỡ này, bởi vì đây là đối cực tối hậu; nó chứa đựng tất cả mọi đối nghịch.

 

Cuộc gặp gỡ này sẽ tạo ra một hữu thể người mới – Phật Zorba. Đó là cái tên mà tôi dành cho con người mới. Và mỗi trong số những sannyasin của tôi phải làm mọi nỗ lực có thể được, để trở thành một "chất lỏng" [liquidity][24] như thế, một sự tuôn chảy, để cho cả hai cực đều thuộc về bạn.

 

Rồi bạn sẽ phải nếm được "hương vị" của sự toàn bộ. Và biết sự toàn bộ là cách duy nhất để biết cái gì là "linh thánh"[holy]. [25] Không có cách nào khác.

 

Thông điệp của tôi rất đơn giản. Thông điệp của tôi là một con người mới, Homo Novus. Khái niệm cũ về con người là hoặc là/ hoặc là: duy vật hoặc duy tâm, đạo đức hoặc vô đạo đức, kẻ tội lỗi hoặc vị thánh. Nó được đặt nền trên sự chia chẻ, chia cắt. Nó tạo ra một nhân loại phân lập. Toàn bộ quá khứ của nhân loại vẫn bệnh hoạn, không mạnh khỏe, "điên rồ" …  Trong ba ngàn năm, năm ngàn năm, những cuộc chiến tranh đã được tiến hành.  Cái này là cực kỳ điên khùng; nó là không thể tin được. Nó ngu xuẩn, phi nhân, không thông minh.

 

Một khi bạn chia con người thành hai, bạn tạo ra sự khốn khổ và địa ngục cho y. Y không bao giờ có thể mạnh khỏe, và không bao giờ có thể toàn bộ; nửa kia – đã bị phủ nhận  – sẽ tiếp tục tìm những cách thức và phương tiện để "khắc phục " [overcome][26] cái phần mà bạn đã áp đặt lên chính mình. Bạn sẽ trở thành một bãi chiến trường, một nội chiến. Đó là trường hợp đã xảy ra trong quá khứ.

 

Trong quá khứ, chúng ta đã không có khả năng tạo ra những hữu thể người thực thụ, mà chỉ là những humanoids. Một humanoid là một kẻ trông giống như một con người người, nhưng hoàn toàn tàn phế, tê liệt. Y đã không được phép nở hoa trong tính toàn thể [totality] của mình. Y là một nửa, và bởi vì y là một nửa, y luôn ở trong sự thống khổ,  và căng thẳng; y không thể " vui chơi," lễ hội.  Chỉ một con người toàn bộ mới có thể vui chơi. Sự vui chơi  là hương thơm của trạng thái  toàn bộ, không bị phân mảnh.

 

Chỉ cái cây nào mà đã sống toàn bộ thì mới nở hoa. Con người chưa nở hoa.

 

Quá khứ vẫn luôn tối tăm và ảm đạm. Nó vẫn luôn là một đêm đen của linh hồn. Và bởi vì nó có tính đè nén,[27] nó buộc phải trở nên gây hấn. Nếu một cái gì đó bị đè nén, thì nó trở nên gây hấn, nó đánh mất tất cả những phẩm chất mềm mại của nó. Cho tới nay, nó vẫn luôn luôn là như vậy.  Chúng ta đã tới một điểm mà ở đó cái cũ phải được bỏ đi, và cái mới phải được báo hiệu.

 

Con người mới sẽ không hoặc là/hoặc là – y sẽ là vừa… vừa … Con người mới sẽ vừa trần thế [earthly] vừa "thiêng liêng" [divine],[28] vừa "thế tục" [worldly] vừa "siêu thế"[otherworldly].[29] Con người mới sẽ chấp nhận tính toàn thể [totality][30] của mình, và y sẽ sống với nó mà không có bất cứ sự chia chẻ nội tâm nào, y sẽ không bị chia chẻ. Vị Thượng đế của y sẽ không chống đối với quỷ sứ [devil],[31] đạo đức tính [morality] của y sẽ không nghịch lại với vô đạo đức tính; y sẽ không biết đến sự chống nghịch nào. Y sẽ siêu việt nhị nguyên tính [duality], y sẽ không bị tâm thần phân lập. Với con người mới, sẽ đến một thế giới mới, bởi vì con người mới sẽ tri giác trong một cách khác, khác về chất lượng. Y sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn khác, mà trước đây chưa từng được sống. Y sẽ là một nhà thần bí [mystic],[32] một nhà thơ, một nhà khoa học, tất cả gộp lại. Y sẽ không chọn lựa: Y sẽ là chính mình một cách không chọn lựa.

 

Đó là cái mà tôi dạy: Homo Novus, một con người mới, không phải là một humanoid. Một humanoid không phải là một hiện tượng tự nhiên. Humanoid được tạo ra bởi xã hội – bởi người tăng sĩ, nhà chính trị, nhà mô phạm. Humanoid được tạo ra, được sản xuất ra. Mỗi đứa trẻ chào đời như một hữu thể người – toàn vẹn, toàn bộ, sống động, không có sự chia chẻ nào. Ngay lập tức, xã hội bắt đầu bóp nghẹt nó, làm nó ngộp thở,  cắt nó thành nhiều mảnh vụn. Bảo nó phải làm gì, và không làm gì, phải là gì và không là gì. Tính toàn bộ của nó chẳng bao lâu bị đánh mất. Nó trở nên [cảm thấy] tội lỗi về bản thể toàn bộ của mình. Nó phủ định nhiều cái tự nhiên, và ngay trong sự phủ nhận đó, nó trở nên không sáng tạo. Bây giờ nó sẽ chỉ là một mảnh, và một mảnh không thể nhảy múa, một mảnh không thể ca hát. Và một mảnh thì luôn có tính tự vẫn, bởi vì một mảnh không thể biết cuộc sống là cái gì. Humanoid không thể tự quyết định. Những người khác đã và đang quyết định thay cho y – cha mẹ, thầy cô giáo, những lãnh tụ, giới tăng sĩ; tất cả họ nắm lấy quyền quyết định của y. Họ quyết định, họ ra lệnh; y chỉ đơn giản đi theo. Humanoid là một tên nô lệ.

 

Tôi dạy sự tự do. Bây giờ, con người phải tiêu diệt mọi loại trói buộc[33] và y phải ra khỏi tất cả mọi nhà tù – không còn nô lệ nữa. Con người phải trở nên cá thể. Y phải trở nên nổi loạn.[34] Và bất cứ khi nào một người đã trở nên nổi loạn … Thỉnh thoảng một ít người đã thoát khỏi sự độc đoán của quá khứ, nhưng chỉ thỉnh thoảng – một Jesus đó đây, một Đức Phật đó đây. Họ là những ngoại lệ. Và ngay cả những người này, Jesus và Phật, cũng không thể sống một cách toàn bộ. Họ cố, nhưng toàn  xã hội chống lại điều đó.

 

Khái niệm của tôi về con người mới, là y sẽ trở thành Zorba người Hy Lạp và cũng sẽ là Phật Gautama. Con người mới sẽ là Phật Zorba. Người ấy vừa "nhục cảm" [sensuous] vừa tâm linh – nhục cảm,  cực kỳ nhục cảm,  trong thân thể, trong cảm quan, thưởng thức thân thể và tất cả những gì mà thân thể làm cho có thể, và vẫn là một ý thức vĩ đại, một sự chứng kiến vĩ đại sẽ ở đó. Người ấy sẽ là một Christ và Epicurus[35] một cách đồng thời.

 

Lý tưởng của con người cũ là sự từ bỏ, lý tưởng của con người mới sẽ là vui hưởng. Và con người mới này đang đến hằng ngày, y đang đến hằng ngày. Thế nhưng người ta vẫn cứ chưa trở nên nhận biết y.  Thật ra, y đã đã bắt đầu ló dạng [36] rồi.  Cái cũ đang chết, cái cũ đang nằm trên giường chết của nó. Tôi không than khóc nó,  và tôi nói nó chết là tốt, bởi vì từ cái chết của nó, cái mới sẽ tự khẳng định chính mình. Cái chết của cái cũ sẽ là sự khởi đầu của cái mới. Cái mới chỉ có thể đến khi cái cũ đã hoàn toàn chết đi.

 

Hãy giúp con người cũ chết đi và con người mới ra đời – và hãy nhớ, con người  cũ có mọi sự khả kính, và toàn bộ quá khứ sẽ ủng hộ y, và con người mới sẽ là một hiện tượng rất kỳ lạ. Con người  mới sẽ quá mới, đến nỗi y sẽ không được kính trọng. Mọi nỗ lực sẽ được làm để tiêu diệt con người mới. Con người mới không thể khả kính, nhưng cùng với con người mới là tương lai của toàn bộ nhân loại. Con người mới  phải được trình diện.

 

Công trình của tôi gồm có việc tạo ra một Phật trường, một trường năng lượng, nơi mà cái mới có thể được sinh ra. Tôi chỉ là một bà đỡ giúp cái mới đi vào trong một thế giới mà sẽ không đang chấp nhận nó. Cái mới sẽ cần nhiều hỗ trợ từ những ai có trí tuệ và thức thời,  từ những ai muốn cuộc cách mạng nào đó xảy ra. Và thời gian đã chín muồi, và nó chưa bao giờ chín muồi như thế. Đây là thời điểm thích hợp, nó chưa bao giờ thích hợp như thế. Cái mới có thể tự khẳng định mình, sự đột phá đã trở nên có thể được.

 

Cái cũ [37] thì quá thối nát, đến mức ngay cả với tất cả sự ủng hộ, nó không thể sống sót; nó phải đến ngày tận số!  Chúng ta có thể trì hoãn, chúng ta có thể tiếp tục thờ phụng cái cũ;  đó chỉ là trì hoãn cái tiến trình. Cái mới thì đang trên đường đi của nó. Tối đa, chúng ta có thể giúp nó đến sớm hơn, hoặc chúng ta có thể ngăn trở [kìm hãm] nó và trì hoãn sự xuất hiện của nó. Trợ giúp  nó là tốt. Nếu nó đến sớm hơn, thì nhân loại sẽ vẫn còn có một tương lai, một tương lai lớn – một tương lai của tự do, một tương lai của tình yêu, một tương lai của niềm vui.

Tôi dạy một tôn giáo mới. Tôn giáo này sẽ không là Kytô giáo, không là Do thái giáo, và sẽ không là Hindu giáo. Tôn giáo này sẽ không có bất cứ tính từ nào thêm vào nó.  Tôn giáo này sẽ tuyệt đối có tính toàn bộ.

 

Người của tôi sẽ phải trở thành những tia nắng đầu tiên mà sắp hiện lên bầu trời. Đó là một nhiệm vụ to lớn,  đó là một nhiệm vụ hầu như bất khả, nhưng bởi vì nó là bất khả, nó sẽ khuyến dụ [38] tất cả những ai có một chút linh hồn nào còn sót lại trong họ. Nó sắp tạo ra một hoài vọng lớn trong tất cả những người vốn có sự mạo hiểm ẩn giấu trong bản thể của họ, người dũng cảm, gan dạ,  bởi vì nó thực sự sẽ tạo ra một thế giới diễm lệ mới.

 

Tôi nói về Đức Phật, tôi nói về Christ, tôi nói về Krishna, tôi nói về Zarathustra, để cho tất cả những gì tốt nhất và tất cả những gì tốt lành trong quá khứ có thể được bảo quản. Nhưng đây chỉ là một ít ngoại lệ. Toàn bộ nhân loại đã sống trong sự nô lệ to lớn, bị xiềng xích, bị chia chẻ, bị điên loạn.[39]

 

Thông điệp của tôi thì đơn giản nhưng sẽ rất khó khăn, rất gay go để làm cho nó xảy ra. Nhưng nó càng khó khăn, nó càng bất khả, thì thách thức càng lớn. Và thời điểm đã đến, bởi vì tôn giáo đã thất bại, khoa học đã thất bại. Thời điểm đã đến, bởi vì phương Đông đã thất bại, phương Tây đã thất bại. Một cái gì đó của một tổng hợp cao hơn được cần đến, trong đó Đông và Tây có thể có một cuộc gặp gỡ, trong đó tôn giáo và khoa học có thể có một cuộc gặp gỡ.

 

Tôn giáo thất bại bởi vì nó thuộc về thế giới bên kia, và nó bỏ bê thế giới này. Và bạn không thể bỏ bê thế giới này; bỏ bê thế giới này là bỏ bê chính những gốc rễ của bạn. Khoa học đã thất bại bởi vì nó bỏ bê thế giới  kia,[40] thế giới bên trong, và bạn không thể bỏ bê những bông hoa. Một khi bạn bỏ bê những bông hoa, cái cốt lõi nội tại nhất của tồn tại, thì cuộc sống mất hết ý nghĩa. Y như cái  cây cần những gốc rễ,  con người cũng cần gốc rễ, và những gốc rễ chỉ có thể ở trong đất. Cái cây cần một bầu trời rộng mở để phát triển, để đi tới chỗ trổ ra những tán lá, và có hằng ngàn bông hoa. Lúc đó, và chỉ lúc đó, cái cây mới hoàn thiện, chỉ lúc đó, cái cây mới cảm nhận tầm quan trọng và ý nghĩa,  và sự sống trở nên thiết thân.

 

Con người cũng ví như một cái cây. Tôn giáo đã thất bại bởi vì nó chỉ đang nói về những bông hoa. Những bông hoa đó vẫn còn mang tính triết học, trừu tượng; chúng không bao giờ hiện thực hóa [materialize].[41] Chúng không thể trở thành hiện thực, bởi vì chúng không được hỗ trợ bởi đất. Và khoa học đã thất bại, bởi vì nó chỉ lưu tâm đến những gốc rễ. Những gốc rễ thì xấu xí, và có vẻ như không có sự nở hoa nào.

 

Phương Tây đang đau khổ vì quá nhiều khoa học; phương Đông đã đau khổ vì quá nhiều tôn giáo. Bây giờ, chúng ta cần một nhân loại mới mà trong đó tôn giáo và khoa học trở thành hai mặt của một hữu thể người. Và cây cầu sẽ là nghệ thuật. Đó là lý do tại sao tôi nói rằng con người mới sẽ là một nhà thần bí,  một nhà thơ và nhà khoa học.

 

Giữa khoa học và tôn giáo, chỉ nghệ thuật mới có thể là cây cầu – thi ca, âm nhạc, điêu khắc. Một khi chúng ta đã đưa con người mới này ra đời, thì trái đất có thể, lần đầu tiên, trở thành cái mà nó phải trở thành. Nó có thể trở thành một thiên đường: chính cái thân thể này là Phật, chính trái đất này là thiên đường.

 

 

 

APPENDIX

(Phụ lục)

 

NHỮNG NÉT LỚN  VỀ CUỘC ĐỜI

VÀ SỰ NGHIỆP CỦA OSHO

 

Tôi là trung tâm của cơn lốc, nên bất cứ cái gì xảy ra xung quanh tôi không tạo ra sự khác biệt nào với tôi. Nó có thể là sự náo động, [42] hay nó có thể là âm thanh đẹp của nước đang chảy;  tôi chỉ là một nhân chứng của cả hai, và sự chứng kiến ấy vẫn là một. Trong phạm vi liên quan đến cái bản thể sâu thẳm  nhất của tôi, thì trong mọi tình huống tôi vẫn chỉ là tôi – không đổi.  Đây là giáo huấn toàn bộ của tôi: những sự thể có thể thay đổi, nhưng ý thức của bạn nên giữ nguyên, tuyệt đối không thay đổi.

 

Những sự thể sẽ thay đổi – đó là bản chất của chúng. Một ngày bạn thành công, một ngày bạn thất bại; một ngày bạn ở trên đỉnh, một ngày khác, bạn ở dưới đáy. Nhưng cái gì đó trong bạn thì luôn y nguyên,  và cái đó là thực tại [reality]của bạn. Tôi sống trong thực tại của tôi, không phải trong những giấc mơ và những ác mộng vây quanh thực tại.

 

**********

 

 

11.12.1931

 

Osho chào đời tại Kuchwada, ngôi làng nơi mà ông bà ngoại ông sống, tại bang Madhya Pradesh, Trung Ấn.

 

1932 – 1939: KUCHWADA

 

Theo sau cái chết của bà nội ông, việc chăm sóc những đứa con bé nhất của bà, và công việc kinh doanh của gia đình đổ lên vai cha mẹ của Osho, thuở ấy họ cũng chỉ mới là những đứa trẻ. Osho đến sống với ông bà ngoại, họ cung cấp cho ông một bầu khí phi thường của tự do và tôn trọng. Thêm vào những tường thuật của riêng ông, và những tường thuật của những người khác, mà họ biết ông trong thời thơ ấu của ông, thì ông là một đứa "đầu gấu" [daredevil][43] và "ngỗ nghịch" [mischief-maker],[44] không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để trắc nghiệm những giới hạn thể chất của riêng ông, và thách thức sự tự thị [self-importance][45] hay đạo đức giả ở bất cứ nơi nào mà ông tìm thấy nó.

 

1938 – 1951 : GADARWADA

 

Sau cái chết của ông ngoại, thì Osho và bà ngoại, cả hai dời về Kuchwada, thị trấn nơi mà cha mẹ ông sinh sống. Tại đó, ông được ghi danh vào trường lần đầu tiên. Khi ông không đang bày ra trò nghịch ngợm và thách thức những giáo viên, Osho tiếp tục cách tiếp cận mạo hiểm [và thường là cô độc] với cuộc sống,  là nét đặc trưng cho những năm đầu tiên sống với ông bà ngoại. Vào năm 1945, ở tuổi 14, ông tiến hành  cuộc thí nghiệm 7 ngày trong việc chờ đợi cái chết, được khơi gợi một phần bởi sự tiên đoán khác thường của một nhà chiêm tinh, ông này được giao nhiệm vụ lấy lá số tử vi cho ông.

 

21.3.1953.  CHỨNG  NGỘ.

 

1951 – 1956: SINH VIÊN ĐẠI HỌC

 

Osho đi chuyên về triết học và đoạt nhiều giải thưởng trong những cuộc thi tranh luận. Ông tốt nghiệp loại ưu từ Jain College và được giáo sư S.S Roy mời đến học chương trình sau đại học tại Đại học Sagar.

 

1957 1970: GIÁO SƯ ĐẠI HỌC & NHÀ DIỄN THUYẾT

 

Osho chấp nhận một chức vụ ở Sanskrit College tại Raipur và về sau, ở đại học Jabalpur, nơi mà ông dạy triết học. Sự "phi chính thống" [46] và phương pháp giảng dạy hết sức táo bạo của ông lôi kéo nhiều sinh viên đến những giờ học của ông, bất kể họ có thực sự ghi danh để lấy tín chỉ [môn triết] hay không. Theo dòng thời gian,  ông bắt đầu mỗi lúc một rời xa khỏi những nhiệm vụ giảng dạy của mình và bắt đầu du hành tới những những nơi ông được mời nói trước công chúng, qua suốt đất nước Ấn Độ.

 

1962: NHỮNG TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH ĐẦU TIÊN [47]

 

[Trong những cuộc du hành và nói chuyện trước công chúng, Osho thường hay chủ trì những buổi thiền định có hướng dẫn ở cuối những buổi nói chuyện.  Xung quanh giáo huấn của ông, mọc lên những trung tâm thiền định đầu tiên, được biết đến như là Jivan Jagruti Kendras [Những trung tâm đánh thức], và phong trào của ông được gọi là Jivan Jagruti Andolan (Phong trào đánh thức sự sống).]

 

Với sự giúp đỡ của những thiền thất và những trung tâm thiền, tôi muốn, trong một phương cách khoa học, giới thiệu con người hiện đại đi vào thiền định – không chỉ trong một thể cách trí thức, mà giới thiệu họ tới thiền định theo cách thể nghiệm [experiential].[48] Có những điều nhất định mà chúng ta chỉ có thể biết bằng cách thực hành chúng.

Những trung tâm thiền là những nơi chốn khoa học,  ở đó con người hiện đại có thể hiểu thiền định thông qua ngôn ngữ và biểu tượng. Không chỉ chừng đó, mà họ còn có thể thực sự thiền định và được dẫn nhập vào nó. Có 112 phương pháp như thế trên thế giới. Tôi muốn đưa ra một cơ sở chi tiết, có tính khoa học cho những phương pháp này tại những trung tâm thiền định. Để cho bạn không chỉ hiểu, mà bạn còn có thể thực hành chúng.

 

1962 – 1974 : NHỮNG TRẠI THIỀN

 

[ Thêm vào những buổi nói chuyện trước công chúng, Osho bắt đầu tổ chức những "trại thiền" 3 – 10 ngày tại vùng quê, nơi mà ông nói chuyện hằng ngày và đích thân hướng dẫn thiền định cho những người tham dự. ]

 

Tôi thường nói với những đám đông 50 ngàn người, hoặc 100 ngàn người, và tôi biết rằng mọi sự đang vượt quá "cái đầu" của họ; họ chỉ đơn giản đang ngồi ở đó. Những người này yêu mến tôi, không phải vì họ hiểu những cái mà tôi đang nói, nhưng chỉ bởi vì cái cách mà tôi đang nói nó. Họ yêu mến sự hiện diện của tôi – nhưng họ không phải là những kẻ tìm kiếm.

 

Thấy tình huống này, rằng nói với đám đông thì hầu như là vô ích, tôi bắt đầu tập hợp một ít người. Cách duy nhất là từ bỏ việc nói chuyện với những đám đông. Tôi thường đi lên núi và tôi thường thông báo với người ta rằng, bất cứ ai muốn lên núi trong 10 ngày, hoặc 7  ngày, thì họ có thể đến và ở cùng tôi. Đương nhiên, nếu ai đó để ra 10 ngày – rời khỏi công việc của mình – thì  anh ta có mối quan tâm nào đó; nó không chỉ là sự tò mò. Nếu anh ta rời bỏ vợ con và công việc trong 10 ngày, thì ít nhất anh ta cho thấy một dấu hiệu rằng, anh ta không chỉ tò mò, mà anh ta thực sự muốn biết. Đó là cách mà những trại thiền bắt đầu.

 

THÁNG 6. 1964. TRẠI THIỀN RANAKPUR

 

[Trại thiền Ranakpur trở thành một dấu mốc trong sự nghiệp của Osho, bởi vì lần đầu tiên những bài nói chuyện và những trầm tưởng [meditations][49] của ông được ghi âm và xuất bản trong một cuốn sách, Con Đường dẫn đến Tự chứng thực,[50] được hoan nghênh rộng rãi tại Ấn. Sau này Osho nói rằng, cuốn sách này chứa đựng toàn bộ giáo huấn của  ông, mà không bao giờ thay đổi. Cuốn sách này bây giờ được in dưới nhan đề Con đường Hoàn hảo. [51] Ở lúc bắt đầu của trại thiền, ông đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo [52] cho việc tham dự: ]

 

Châm ngôn đầu tiên là: sống trong hiện tại. Chỉ có hiện tại là thực và sống động.[53] Và nếu chân lý phải được biết,  thì nó chỉ có thể được biết thông qua hiện tại.

 

Châm ngôn thứ hai là: sống một cách tự nhiên. Y như những diễn viên cất bỏ những hóa trang và y phục sân khấu,  để nó sang một bên sau khi trình diễn, trong 5 ngày này [của trại thiền Ranakpur], bạn phải cất bỏ những chiếc mặt nạ [54] và đặt chúng sang một bên. Hãy để cho cái nền tảng và tự nhiên trong bạn xuất hiện ra – và hãy sống trong nó.

 

Châm ngôn  thứ ba là: sống đơn độc. Bên trong, đừng để cho những sự việc ùa vào bạn. Và bên ngoài cũng đúng như vậy – hãy sống tự mình, như thể chỉ có một mình bạn tại trại này. Bạn không phải giữ liên hệ với bất cứ ai khác.

 

THÁNG 6. 1966: TẠP CHÍ JYOTI SIKHA ( Đánh thức sự sống)

 

Một tuần báo bằng tiếng Hindi được xuất bản bởi Jivan Jagruti Kendra của Bombay, mà sau này trở thành nhà xuất bản chính thức của những cuốn sách ghi lại những bài nói chuyện của Osho. Vào lúc này, ông được biết  đến một cách rộng rãi như là " Acharya Rajneesh."

 

1968: TỪ TÌNH DỤC ĐẾN SIÊU THỨC.

 

[Osho được mời diễn thuyết một loạt 5 bài nói về "tình yêu" tại Thính đường Bharatiya Vidya Bhava, một thính đường rất có uy tín.  Trong bài nói đầu tiên, vào 28/8, Osho giải thích rằng tình yêu và thiền định khởi lên như là một sự chuyển hóa của năng lượng tình dục (sex), và rằng, nếu tình dục bị kìm nén, nó không thể được chuyển hóa. Nhiều người bị xúc phạm [55] về việc ông đã nói về tình dục, và những chủ nhân của thính đường này hủy bỏ loạt nói chuyện đó.

 

Vào 28/9, Osho trở lại Bombay để hoàn tất những buổi nói chuyện với một lượng thính giả rất lớn tại Gwalia Tank Maidan. Loạt bài nói này được xuất bản dưới nhan đề Từ Tình dục đến Siêu thức, và nó trở thành  cuốn sách được đọc nhiều nhất của ông. Giới báo chí Ấn Độ bắt đầu nói ám chỉ ông như là " sex guru" (đạo sư sex).]

 

Nếu bạn muốn biết chân lý nguyên thủy [56] về tình yêu, điều kiện tiên quyết là chấp nhận sự thiêng liêng của tình dục, chấp nhận thần tính [divinity] của tình dục, tương tự như cách mà bạn chấp nhận sự hiện hữu của Thượng đế – với một trái tim rộng mở. Và [nếu] bạn càng chấp nhận tình dục với một trái tim và tâm trí rộng mở bao nhiêu, thì bạn càng tự do khỏi nó bấy nhiêu. Nhưng bạn càng kìm nén nó bao nhiêu, thì bạn sẽ càng bị ràng buộc vào nó bấy nhiêu ...

 

Khi tôi chấm dứt buổi nói chuyện của tôi ngày hôm đó, tôi ngạc nhiên thấy rằng, tất cả những quan chức mà đã có mặt trên khán đài,  những người bạn mà đã tổ chức cuộc gặp mặt, đã biến mất vào trong không trung. Tôi không thấy một người nào trong số họ, khi tôi bước xuống lối đi nhỏ giữa các dãy ghế để ra về…

 

Thậm chí,  người tổ chức cũng không có mặt để cám ơn tôi. Bất cứ những cái mũ lưỡi trai trắng nào (những người theo Gandhi, nhiều người trong số họ vẫn là những ủng hộ viên của Osho cho đến lúc bấy giờ), bất cứ những người mặc khadi nào, đều không có mặt trên  khán đài;  họ đã tẩu thoát lâu trước khi buổi nói chuyện kết thúc. Những vị lãnh tụ quả thật là một chủng loại rất yếu ớt. Và nhanh chân nữa! Họ tẩu thoát trước khi những đồ đệ của họ tẩu thoát.

 

1970 – 1974: BOMBAY

 

[Vào 27 /6/1970,  một buổi lễ tiễn đưa được tổ chức dành cho Osho tại Jabalpur, nơi mà ông đã từng là giáo sư và sống nhiều năm. Vào 1/7, Osho dời đến Bombay và bắt đầu diễn thuyết – đều đặn, vào buổi chiều tối, với khoảng 50 người, đôi khi kết thúc bằng thiền định hay ca hát, nhảy múa. Ông chỉ du hành để chu toàn những cuộc nói chuyện quan trọng, mà ông đã nhận nói, và khoảng tháng 12, những cuộc nói chuyện này được hoàn tất. ]

 

Dần dần, tôi thường tự giam mình trong một căn phòng: Tôi ngừng du hành.  Bây giờ tôi thường làm việc trên những người mà họ ở trong tâm trí tôi. Tôi thường chuẩn bị cho họ và tôi phái họ ra ngoài. Việc di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, mà tôi không thể tự mình làm, tôi sẽ có thể làm bằng cách phái đi 10 ngàn người.

 

Đối với tôi, tôn giáo cũng là một quá trình khoa học, nên tôi có trong trí mình một kỹ thuật khoa học hoàn chỉnh dành cho nó. Khi người ta trở nên sẵn sàng, kỹ thuật khoa học đó sẽ được chuyển giao cho họ. Với sự giúp đỡ của kỹ thuật đó, họ sẽ làm việc trên hằng ngàn người. Việc đó không cần có sự hiện diện của tôi.  Nhiệm vụ của tôi là  phải phát hiện ra những người mà có khả năng thực hiện mục đích đó.

 

1970. THIỀN ĐỘNG ĐƯỢC GIỚI THIỆU

 

[Vào tháng 4 năm 1970, Osho giới thiệu một kỹ thuật thiền cách mạng, có tính thanh tẩy, mà ông gọi là Thiền (Năng) Động. Vào tháng 5 tại trại thiền Nargol, ông chủ trì những cuộc thí nghiệm trong loại thiền này, mà ông tiếp tục điều khiển có hiệu quả qua suốt 3 năm kế tiếp. Thiền Động trở thành "kỹ thuật" thiền nổi tiếng nhất và được thực tập rộng rãi.]

 

 

Một người bạn đã hỏi, " Trong những giáo huấn trước đây về thiền,  anh luôn luôn yêu cầu chúng tôi phải thư giãn, tĩnh lặng, nhận biết.[57] Và bây giờ, trong khi thở sâu và hỏi, 'Tôi là ai?' anh lại  động viên chúng tôi đem mọi nỗ lực của mình vào trong nó. Vậy thì,  cái nào trong hai kỹ thuật đó sẽ là tốt?"

 

Không có vấn đề tốt và xấu ở đây. Tôi hiểu cái điều mà bạn muốn nói, nhưng nó không phải vấn đề tốt và xấu. Bạn chỉ cần phải phát hiện ra cái nào trong số những kỹ thuật đó cho bạn nhiều bình an và thúc đẩy cái "đà" [58] thiền định của bạn. Có những người có thể đạt tới sự thư giãn chỉ sau khi họ đã tự làm cho mình ngã xuống đất.  Và có những người khác, có thể đi vào trong sự thư giãn ngay tức thì; nhưng những người như vậy thì rất ít, lâu lắm mới có một đôi người. Thật khó mà di chuyển thẳng vào trong sự im lặng; chỉ một nhúm người có thể làm được điều ấy. Đối với đa số, cần thiết phải đi qua nhiều thao tác và căng thẳng trước khi họ có thể thư giãn. Nhưng mục đích trong cả hai trường hợp đều như nhau, mục tiêu sau cùng là một. Đó là sự thư giãn.

 

1970. MỘT ĐỊNH NGHĨA MỚI VỀ SANNYAS.

 

[Từ 26/9 đến 5/10/1970,  Osho tổ chức một trại thiền tại Kulu Manali, tại những chân đồi của Hy Mã Lạp Sơn. Vào 26/9, ông điểm đạo cho nhóm đệ tử đầu tiên của mình, mà ông gọi là "những sannyasin kiểu mới." Cái "phiên bản"  [version][59] của ông khác biệt một cách căn để với sannyas Hindu cổ đại; theo sannyas cổ xưa,  thì “những kẻ tìm kiếm” từ bỏ mọi vật sở hữu và mọi quan hệ, độc thân, và sống trên cái mà anh ta [hay cô ta] được cúng dường bởi những người mà vẫn còn hệ lụy vào xã hội. Trong khi Osho bắt đầu định nghĩa "sannyas kiểu mới" thì sự thách thức của ông với truyền thống trở nên ngày càng rõ rệt. ]

 

Tôi sắp chia cách sannyas của tương lai khỏi sannyas của quá khứ. Và tôi nghĩ rằng sannyas truyền thống, như nó vốn là cho tới nay, thì đang ở trên giường chết của nó; nó đang gần như hấp hối. Nó không có chút tương lai nào. Nhưng sannyas trong yếu tính của nó phải được bảo trì. Nó là một thành tựu quá quý báu của nhân loại, đến mức chúng ta không được phép đánh mất nó. Sannyas là bông hoa hiếm hoi nhất, lâu lắm mới nở một lần. Nhưng có thể là nó sẽ lụi tàn đi, vì thiếu sự chăm sóc thích hợp – và nó chắc chắn sẽ chết, nếu nó vẫn cứ bị trói buộc vào những khuôn mẫu cũ.

 

Sannyas, theo nghĩa cổ xưa, là sự từ bỏ thế gian. Tôi chống lại điều ấy.

 

Nhưng tôi vẫn dùng từ "sannyas", bởi vì tôi có thể thấy một cái nghĩa khác có ý nghĩa nhiều, rất nhiều hơn nghĩa cũ. Tôi ngụ ý từ bỏ tất cả mọi điều kiện mà thế gian đã cho bạn – tôn giáo của bạn, đẳng cấp của bạn, đạo Bà la môn của bạn, Đạo Jaina của bạn, đạo Kytô của bạn, Thượng đế của bạn, cuốn sách thánh của bạn.

 

Đối với tôi, sannyas ngụ ý một sự cam kết rằng, " Tôi sắp thanh tẩy chính mình hoàn toàn khỏi tất cả những điều mà đã bị  áp đặt lên tôi, và tôi sẽ bắt đầu sống một cách độc lập, tự mình [60] – tươi mới (fresh), trẻ trung, thuần khiết, không ô nhiễm." Do vậy sannyas là một cuộc điểm đạo để bước vào trong sự ngây thơ hồn nhiên của bạn.

 

 

[Bắt đầu vào năm 1970 và tiếp tục cho đến 1985, những sannyasin của Osho được yêu cầu mặc y phục màu mận tía. Và họ cũng được nhận một dây chuyền đeo cổ từ Osho, gồm có 108 hạt với một khung ảnh nhỏ có hình Osho. Thêm vào đó, Osho cho mỗi sannyasin một cái tên mới. Cái tên mới bao gồm một tiếp đầu ngữ chung cho tất cả – "swami" cho đàn ông, và "ma" cho phụ nữ. ]

 

Con đường của nam tính là sự nhận biết [awareness],[61] và sự nhận biết mang bạn đến một điểm mà ở đó bạn trở thành "chủ nhân" [62] của chính tồn tại mình. Đó là nghĩa của từ "swami." Con đường nữ tính là con đường của tình yêu, và tình yêu mang bạn đến một điểm tối hậu, nơi mà bạn có thể "nuôi nấng" [mothering] toàn bộ sự hiện hữu. Và đó là nghĩa của từ "ma." Một người phụ nữ, trong sự nở hoa tối hậu của nàng, trở thành một năng lượng nuôi nấng [63]  … nàng có thể nuôi nấng toàn bộ sự hiện hữu. Nàng cảm thấy được ban phúc, và nàng ban phúc cho toàn bộ hiện hữu. Khi một người đàn ông đạt tới điểm tối hậu, y không trở thành một người cha, y không trở thành một người mẹ, y đơn giản trở thành một "chủ nhân" : chủ nhân sự tồn tại của riêng mình.

 

Tình yêu và sự nhận biết – đây là hai con đường. Và khi tôi nói nam tính, tôi không ngụ ý rằng, tất cả những người nam đều có nam tính, và khi tôi nói nữ tính,  tôi không ngụ ý rằng, mọi người nữ đều có nữ tính. Có những người phụ nữ mà phải đi qua con đường của sự nhận biết – tôi cũng muốn gọi họ là swami, nhưng cái đó sẽ hơi lẫn lộn một chút. Như nó đang là,[64] nó đã là quá điên rồ… cho nên tôi cưỡng lại cám dỗ đó. Nhưng đôi khi tình cờ tôi thấy một phụ nữ thụ giới sannyas và tôi cảm thấy muốn gọi cô ta là swami, không phải là "ma." Và rồi, đôi khi một người đàn ông đến, rất nữ tính, và nom có vẻ nữ tính hơn bất cứ người phụ nữ nào.

 

[VỀ SAU, VÀO NĂM 1985, OSHO NÓI:]

 

Chầm chậm, chầm chậm, tôi bắt đầu lựa ra những người của tôi, và chỉ để lựa họ ra,  tôi bắt đầu điểm đạo họ thành những sannyasin, để mà tôi có thể nhận ra họ và biết người của tôi là những ai. Tôi bắt đầu cho họ những cái tên, để tôi có thể nhớ họ, bởi vì thật khó cho tôi nhớ đủ loại tên lạ từ khắp thế giới. Cái lý do thực thụ chỉ đơn giản là có những cái tên để tôi có thể nhớ; nếu không, thật là bất khả đối với tôi. Bây giờ có những người từ hầu như mọi đất nước, mọi ngôn ngữ: thật khó mà nhớ tên của họ.

 

Nhưng khi tôi cho bạn một cái tên, nó là một vấn đề hoàn toàn khác. Tôi cho bạn một cái tên vì những lý do nhất định, vì những phẩm chất nhất định mà tôi thấy trong bạn, vì những khả tính nhất định mà tôi thấy trong bạn, vì những đặc tính nhất định mà đã có ở đó – và tất cả những cái này trở nên được liên kết với nhau.

 

Cái tên mà tôi cho, tôi biết nó, biết nghĩa của nó.  Nghĩa của nó và phong cách sống của bạn, khuôn mẫu của bạn, tiềm năng của bạn, tất cả trở nên liên kết với nhau. Tôi dễ dàng nhớ bạn hơn; nếu không, thật là khó khăn, hầu như là bất khả.

 

Tôi đã cho bạn y phục đỏ, vì lý do đơn giản, là để tôi có thể nhận ra bạn; tất cả những cái cớ khác chỉ là "tào lao" [hogwash][65] cả. Chỉ để cho bạn những lý do tốt – bởi vì người ta sẽ hỏi bạn và bạn sẽ phải đưa ra những lý do tốt cho họ – tôi đã cố tạo ra một triết lý từ "hư không" [nothing][66].  Nhưng sự thực chỉ đơn giản là cái này – không có gì nhiều hơn cái này.

 

[VÀ VÀO NĂM 1986, ÔNG LẠI NHẤN MẠNH RẰNG, NHỮNG BIỂU TƯỢNG BÊN NGOÀI CỦA SANNYASIN LÀ KHÔNG QUAN TRỌNG : ]

 

Tâm trí con người là một tâm trí chưa chín muồi. Nó bắt đầu chấp vào những biểu tượng bên ngoài. Cái đó đã xảy ra cho tất cả mọi tôn giáo của thế giới. Ở lúc ban đầu, tất cả chúng đều tốt, nhưng về sau, tất cả chúng đều đi lạc đường. Và lý do là cái bên ngoài được nhấn mạnh quá nhiều, đến nỗi người ta hoàn toàn quên cái bên trong. Để chu toàn  cái bên ngoài là một nhiệm vụ quá nặng nề,  đến nỗi không còn lại chút không gian nào thậm chí để nhớ cái cuộc hành trình bên trong [nội tại] của bạn, mà về căn bản, nó chính là ý nghĩa của tính tôn giáo.

 

Để bắt đầu, và với một thế giới mà quá bị ám ảnh với những sự thể bên ngoài, tôi cũng phải  bắt đầu sannyas với những sự thể bên ngoài – thay đổi y phục của bạn sang màu cam, đeo một cái mala, thiền định – nhưng sự nhấn mạnh chỉ là trên thiền định. Nhưng tôi phát hiện ra rằng, người ta có thể thay đổi y phục của họ rất dễ dàng, nhưng họ không thể thay đổi tâm trí họ. Họ có thể đeo mala, nhưng họ không thể di chuyển vào trong ý thức họ. Và bởi vì họ mặc y phục màu cam, đeo mala, có một cái tên mới, họ bắt đầu tin rằng, họ đã trở thành một sannyasin.

 

Sannyasin thì không quá rẻ tiền như vậy. Do vậy, bây giờ thời điểm đã đến, và bạn đủ chín chắn để chấm dứt giai đoạn sơ khởi. Nếu bạn thích màu cam, màu đỏ, hoàn toàn tốt – nó không thể gây tác hại nào, nhưng nó cũng không trợ giúp gì. Nếu bạn yêu cái mala, nếu bạn yêu cái khung ảnh với hình tôi trên đó, thì nó chỉ đơn giản là vật trang trí của bạn, nhưng nó không dính líu gì tới tôn giáo cả. [67] Cho nên bây giờ, tôi giản lược tôn giáo vào yếu tính của nó. Và cái đó là thiền định.

 

Cái ngày mà tôi bắt đầu điểm đạo cho mọi người, nỗi sợ duy nhất của tôi là, " Một ngày kia, mình có khả năng biến đổi những người theo mình thành bạn của mình không?"  Đêm trước đó, tôi không ngủ được. Một cách lặp đi lặp lại,  tôi nghĩ, "Mình sẽ xoay xở việc ấy như thế nào? Một môn đệ thì không được xem là một người bạn." Đêm đó, tại Kulu, Hy mã Lạp sơn, tôi nhủ thầm " Đừng nghiêm trọng quá. Mình  có thể xoay xở bất cứ cái gì mặc dù mình không biết ABC về khoa quản lý."

 

Tôi nhớ lại một cuốn sách của Bern, " Cuộc cách mạng quản lý." Tôi đọc nó bởi vì cái nhan đề chứa đựng cái từ "quản lý." Mặc dù tôi yêu cuốn sách, một cách tự nhiên, tôi thất vọng, bởi vì nó không phải là cái mà tôi đang tìm kiếm. Tôi không bao giờ có khả năng quản lý một cái gì cả. Cho nên đêm hôm đó tại Kulu Manali tôi đã cười to.

 

KHU LIÊN HỢP WOODLANDS

 

[Osho chuyển tới một căn hộ chung cư (apartment)[68] rộng rãi tại khu liên hợp Woodlands (complex)[69] tại Bombay, nơi mà ông sống cho đến tháng 3/1974. Bây giờ Osho đã "định cư",  ông có thể làm việc một cách gần gũi hơn với những cá nhân. Ông gặp từng cá nhân hay những nhóm nhỏ, và tổ chức những buổi nói chuyện đều đặn, bao gồm những bài nói về 112 kỹ thuật thiền của Vigyan Bhairav Tantra, về sau, chúng được xuất bản với nhan đề “Cuốn sách của những bí mật.” Những sannyasin và những kẻ tìm kiếm khác gặp nhau mọi buổi sáng trên một bãi biển lân cận để thực tập Thiền Động cùng nhau. Thêm vào đó, Osho vẫn thỉnh thoảng chủ trì những trại thiền trong vùng quê. Càng ngày những người phương Tây càng bắt đầu đến gặp ông, và nhiều người được điểm đạo thành sannyasin.]

 

 

Tôi chú trọng thiền định hơn là những cuộc thảo luận. Những cuộc thảo luận này chỉ để cho bạn một cú đẩy,  để thỏa mãn bạn về mặt tri thức, chỉ để cho bạn một cảm tưởng rằng bất cứ cái gì mà bạn đang làm, là rất trí thức, "hợp lý".  Không phải vậy.

 

Cho nên, bất cứ cái gì tôi vẫn từng nói, thì trên một phương diện, hoàn toàn trái nghịch với cái mà tôi đã và đang cố kéo bạn vào. Cách tiếp cận của tôi, trong phạm vi mà những cuộc thảo luận này có liên quan, là có tính "hợp lý" (rational) ,[70] chỉ để thỏa mãn bạn, chỉ để cho bạn một vài đồ chơi để chơi, để mà bạn có thể được thuyết phục vào trong một cái gì khác. Cái gì khác đó thì không "hợp lý"; cái đó là "phi lý" [irrational].[71]

 

Thiền định của chúng ta chỉ là một cú nhảy vào trong sự hiện hữu phi lý. Và sự hiện hữu thì phi lý – nó thần bí,  nó là một huyền nhiệm. Cho nên, xin đừng đeo níu vào cái mà tôi đã nói với bạn; thay vào đó, hãy níu vào bất cứ cái gì mà tôi đã thuyết phục bạn làm. Hãy làm nó, và một ngày kia, bạn sẽ nhận thức rằng bất cứ cái gì tôi đã nói là có ý nghĩa. Nhưng nếu bạn tiếp tục đeo níu vào cái mà tôi đã nói, thì nó có thể cho bạn kiến thức, nó có thể làm cho bạn "đa văn",  nhưng bạn sẽ không đạt tới "sự biết [the knowing]." [72] Và bất cứ cái gì tôi đã nói, có thể thậm chí trở thành một chướng ngại.

 

 

1971: TỪ ACHARYA ĐẾN BHAGWAN

 

[Vào tháng 5/1971, Osho thay đổi tên mình từ Acharya Shree Rajneesh thành Bhagwan Shree Rajneesh và lần đầu tiên công khai nhận  rằng ông đã chứng ngộ.]

 

Nhiều người đã hỏi tôi, tại sao tôi giữ im lặng về sự kiện rằng tôi đã chứng ngộ vào năm 1953. Trong gần 20 năm, tôi chưa bao giờ nói gì về nó với bất cứ ai, trừ khi ai đó tự mình ngờ ngợ [73] về nó, trừ khi một ai đó tự mình nói với tôi, " Chúng tôi cảm thấy rằng cái gì đó đã xảy ra với ông. Chúng tôi không biết nó là cái gì, nhưng một điều chắc chắn: cái gì đó đã xảy ra và ông không còn giống như chúng tôi – ông đang che giấu nó."

 

Trong những năm đó, không quá 10 người đã hỏi tôi, và ngay cả lúc đó, tôi tránh họ càng nhiều càng tốt, trừ khi tôi cảm thấy rằng ước muốn của họ là chân thực. Tôi chỉ tiết lộ với họ khi nào họ đã hứa giữ bí mật điều đó. Và tất cả họ đều giữ lời hứa. Bây giờ tất cả họ đều là sannyasin, nhưng tất cả đều giữ bí mật. Tôi nói, " Các bạn hãy đợi. Hãy đợi thời điểm thích hợp. Chỉ lúc đó tôi mới công bố nó ra."

 

Tôi đã học hỏi nhiều từ những vị Phật quá khứ. Nếu Jesus giữ im lặng một chút về việc Ngài là Con Trai của Thượng đế, thì nó sẽ có lợi lạc nhiều hơn cho nhân loại. Tôi đã nhấn mạnh rằng, bao lâu mà tôi chưa ngừng du hành tại đất nước, thì tôi sẽ không công bố nó; nếu không, có lẽ tôi đã bị giết chết – tôi đã không có mặt ở đây.

 

Một khi tôi đã hoàn tất việc du hành, giao tiếp với quần chúng, di chuyển từ thị trấn này thị trấn khác… và không có một vệ sĩ nào. Việc giết tôi sẽ không là vấn đề, nó quá đơn giản. Nhưng trong gần 20 năm, tôi đã giữ hoàn toàn im lặng về điều ấy. Tôi công bố nó, chỉ khi nào tôi thấy bây giờ tôi đã thu thập đủ người mà có thể hiểu nó. Tôi chỉ công bố nó, khi tôi biết rằng, bây giờ tôi có thể tạo ra thế giới nhỏ bé của riêng tôi và tôi không còn quan tâm đến những đám đông, quần chúng và lũ ngu xuẩn [the stupid mob][74]  nữa.

 



[1] The whole human being: Hữu thể người “ toàn bộ.” Trái nghĩa của “ toàn bộ” là “ từng phần.” Theo Osho, “ con người cũ” đều là “ con người từng phần”, “ con người một nửa”. Ông đưa ra một mô hình về “ con người mới” – mà ông gọi là “con người toàn bộ” – vừa “ nhục cảm” lại vừa “ tâm linh”… vừa... vừa… [ vân vân].

[2] Fantasies.

[3] Lúc ấy là thái tử Siddharta.

[4] Golden chariot.

[5] The beyond.

   [6] Mediocre.

   [7] “ Khi phương Đông giàu có, thì phương Tây nghèo nàn. Do Thái giáo, Kytô giáo, và Hồi giáo – tất cả ba tôn giáo phi Ấn Độ này, đều được sinh ra trong sự nghèo nàn. Chúng không thể phát triển những kỹ thuật thiền định, không có nhu cầu. Chúng vẫn còn là những tôn giáo của người nghèo.” [ Osho]    Đây là những nhận định rất đáng suy ngẫm.

[8] Disparity.

  [9] “Những tôn giáo phương Đông được sinh ra trong sự giàu có; đó là lý do tại sao tâm trí phương Tây đang trở nên ngày càng quan tâm đến những tôn giáo phương Đông.”   [ Osho]    Đây là luận điểm cần lưu ý.

[10] Untouchable.

[11] Divine providence.

[12] Decree.

[13] Initials.

[14] Unconsciousness.

[15] Critical.

[16] Phase.

[17] New humanity.

[18] Polarities.

[19] The other.

[20] Fantasy.

[21] Fluid.

[22] Untrue.

[23] Celebrating.

[24] Liquidity.

[25] Holy.

[26] Overcome.

[27] Repressive.

[28] Divine.

[29] Otherworldly.

[30] Totality.

[31] Devil.

[32] A mystic.

[33] Bondage.

[34] Rebellious.

   [35] Epicurus [ 341- 270, trước CN]. Triết gia Hy Lạp cổ đại, người chủ xướng của chủ nghĩa khoái lạc. Theo ông, cứu cánh của cuộc sống, là đạt tới khoái lạc. Tuy nhiên, có 2 loại khoái lạc, vật chất và tinh thần, và ông ưu tiên cho khoái lạc tinh thần. [Đa phần những người tự xưng là theo “ chủ nghĩa Epicurus,” họ đều hiểu lầm ông – bởi vì triết lý của ông sâu xa hơn rất nhiều.]

[36] Dawned.

[37] The old.

[38] Seduce.

[39] Insane.

[40] The other world.                                                                                              

[41] Materialize.

[42] Turmoil.

[43] Daredevil.

[44] Mischief – maker.

[45] Self – importance.

[46] Unorthodox.

   [47] Bạn đọc lưu ý: Trong phần Phụ Lục này, có lời của “ người biên tập” xen kẽ với lời của Osho. Để khỏi lẫn lộn, lời của người biên tập được ghi giữa 2 cái ngoặc […]. Lời của Osho thường có chữ “ tôi”, và không có [ ].

[48] Experiential.

[49] Meditations.

[50] Path to Self – Realisation.

[51] The Perfect Way –  Nhà xuất bản Rebel, Ấn Độ.

[52] Guideline.

[53] Alive.

   [54] “Châm ngôn  thứ hai là: sống một cách tự nhiên. Y như những diễn viên cất bỏ những hóa trang và y phục sân khấu,  để nó sang một bên sau khi trình diễn, trong 5 ngày này (của trại thiền Ranakpur), bạn phải cất bỏ những chiếc mặt nạ và đặt chúng sang một bên. Hãy để cho cái nền tảng và cái tự nhiên trong bạn xuất hiện ra – và hãy sống trong nó.” [ Osho]   Đây là một sáng kiến rất hay.

[55] Outraged.

[56] Elemental.

[57] Aware.

[58] Momentum.

[59] Version.

[60] “ Đối với tôi, sannyas ngụ ý một sự cam kết rằng, ‘Tôi sắp thanh tẩy chính mình hoàn toàn khỏi tất cả những điều mà đã bị  áp đặt lên tôi, và tôi sẽ bắt đầu sống một cách độc lập, tự mình   – tươi mới (fresh), trẻ trung, thuần khiết, không ô nhiễm’.”  [ Osho]   Đây là một định nghĩa rất “ nhân bản” , phóng khoáng, và “ phi tôn giáo” nữa.

[61] Awareness.

[62] Master.

[63] Mothering energy.

   [64] As it is.

[65] Hogwash.

[66] Nothing.

   [67] “Nếu bạn yêu cái mala, nếu bạn yêu cái khung ảnh với hình tôi trên đó, thì nó chỉ đơn giản là vật trang trí của bạn, nhưng nó không dính líu gì tới tôn giáo cả.   Cho nên bây giờ, tôi giản lược tôn giáo vào yếu tính của nó. Và cái đó là thiền định.” [ Osho]   Như vậy, những cái “ trang trí” bề ngoài chỉ là thứ yếu, và không ăn nhập gì tới tôn giáo. Cái quan trọng nhất đối với Osho, vẫn là thiền định.

[68] Apartment.

   [69] Woodlands complex.

[70] Rational.

[71] Irrational.

[72] Knowing.

[73] Suspect.

[74] The stupid mob.

 

Đỗ Tư Nghĩa
Số lần đọc: 1615
Ngày đăng: 30.09.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tự Truyện Osho 8 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 7 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 6 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 5 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 4 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 3 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 2 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 1 - Đỗ Tư Nghĩa
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 12 - Tạ Tỵ
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay 11 - Tạ Tỵ
Cùng một tác giả
Tự Thú 1 (chân dung)
Tự Thú 2 (chân dung)
Tự Thú 3 (chân dung)