Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
780
116.660.472
 
Trường Đại học sư phạm Hà Nội : kỷ niệm thanh xuân của đời tôi
Lê Khánh Mai

Học xong phổ thông tôi chọn nghề dạy học và thi đậu vào Khoa Ngữ Văn ĐH Sư phạm Hà Nội I khoá 1971-1975. Với tôi đó là quãng đời đẹp nhất, ghi dấu bao kỷ niệm tuổi thanh xuân. Đó cũng là khoảng thời gian tôi tích lũy được nhiều tri thức, phương pháp sư phạm và cả vốn sống giúp ích cho hoạt động thực tiễn của mình sau này. Có thể nói rằng nếu không học ngành sư phạm cuộc đời tôi không chắc được như bây giờ.

 

Cuối năm 1971, tôi háo hức nhập trường đúng lúc Hà Nội bị một trận lụt lớn. Những khúc đê xung yếu có nguy cơ bị vỡ. Mỹ lại đe dọa đánh phá thủ đô. Sinh viên tỏa đi khắp nơi hộ đê sông Hồng, sông Đuống. Hàng nghìn người nối nhau như một công trường lớn, chuyền đá hộc chèn vào chân đê sạt lở. Tôi 17 tuổi, nhỏ bé, mảnh khảnh, ngạc nhiên vì mình vác được những tảng đá to nặng đến thế. Có lẽ niềm hạnh phúc được vào đại học và khí thế của tuổi trẻ bấy giờ đã cho tôi sức mạnh.

 

Giảng đường đại học là những dãy nhà tranh tre, không tường che chắn, nắng gió cứ tự nhiên tràn vào. Mỗi lớp hàng trăm sinh viên, thầy giảng bài không có micro, phải cố nói to để sinh viên nghe rõ. Bây giờ mỗi khi có dịp họp mặt bạn bè cùng lứa, chúng tôi vẫn nhắc đến các thầy cô dạy khoa Văn với tình cảm biết ơn, kính trọng và thương đến rưng rưng. Thầy Bùi Văn Nguyên, Lê Trí Viễn, Nguyễn Văn Hạnh, Thành Thế Thái Bình, Nguyễn Đình Chú, Đỗ Bình Trị, Hồ Sĩ Hiệp, Phùng Qúy Nhâm, Nguyễn Trường Phát….Cô Đặng Thị Lanh, Nguyễn Thị Hai… và nhiều thầy cô khác, những nhà giáo tâm huyết với nghề, đạo đức trong sáng, đầy tình yêu thương và trách nhiệm. Thời ấy các thầy cô nghèo lắm, hầu hết ở nhà tập thể lụp sụp, dột nát, tài sản chẳng có gì nhưng giảng bài say sưa như thể nói bằng tất cả gan ruột, tận tâm hướng dẫn chúng tôi nên đọc sách nào, nghiên cứu một đề tài khoa học ra sao….Tôi nhận ra học Văn, nhất là Sư phạm Văn không dễ dàng nhàn rỗi như một số người lầm tưởng. Sau này trở thành giáo viên với nhiều năm đứng trên bục giảng tôi thấm thía một sự thật: chọn nghề dạy học là chọn một cuộc dấn thân.

 

Năm 1972 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn cuối, gian khổ ác liệt. Có lệnh tổng động viên, nhiều nam sinh viên vừa chân ướt chân ráo vào đại học đã gác bút nghiên lên đường nhập ngũ. Sân trường ĐHSP ngập trong không khí vừa rộn ràng hối hả, vừa bịn rịn lắng sâu tiễn người ra trận. Lớp học trở nên buồn tẻ vì thiếu vắng những chàng trai khỏe mạnh, thông minh và hài hước. Trong đó có nhiều người không bao giờ trở về, họ đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Nữ sinh khoa Văn thời ấy có nhiều hoa khôi, giỏi nữ công gia chánh và có khiếu đàn hát, sáng tác thơ văn. Đất nước còn nghèo, phải tập trung sức người sức của cho tiền tuyến, phái đẹp không biết đến thời trang và các cuộc thi hoa hậu, tất cả đều ăn mặc giản dị, giống nhau một cách đơn điệu, khuất lấp bao nhiêu vẻ xinh tươi rực rỡ  nhất của đời con gái . Tôi đã viết về cái thời gian khó ấy như thế này:

 

“Thời thiếu nữ qua nhanh như chưa từng thiếu nữ

Giấu mơn mởn thịt da trong tấm áo xuềnh xoàng

Nhớ điên cuồng người tình đầu đời khung ngực rộng

Bàn tay đằm cá tính miền Trung

Mười ngón tự tin như xương rồng vượt lên đất khát

In dấu quê hương bật máu đường cày

Viết những câu thơ sinh viên lửa cháy

Gieo đầm đìa cung đàn âm thanh

Rồi cầm súng đi vào cuộc chiến tranh

Chưa một lần cảm nhận mịn màng eo lưng con gái

Đã người kiếp trước thiên thu”

(Hà Nội mùa đông đầu thế kỷ)

 

Hà Nội năm 1972 rất căng thẳng, máy bay Mỹ ném bom, nhất là trận 12 ngày đêm tàn phá Khâm Thiên và nhiều khu phố khác. Nhà máy, xí nghiệp, cơ quan, trường học đi sơ tán. Chúng tôi tạm xa giảng đường về những vùng quê. Chiếc ba lô nhỏ giành ưu tiên đựng sách vở tài liệu học tập. Trong bài thơ “Nhớ một khoảng đời” tôi viết: “Quên làm sao kỷ niệm thời sơ tán/ lớp học đơn sơ bên lùm cây/ thầy giáo giảng thơ trong tiếng rú máy bay/ cơm sinh viên mỳ nhiều hơn gạo/ nhưng cuộc sống mỗi phút giây trở thành kỳ diệu/ bởi tình người gắn bó thương yêu”.

 

 Ở nơi thôn dã chúng tôi được nhân dân đùm bọc cưu mang. Tôi cùng 3 bạn gái ở trong một gia đình, nhà chỉ có 1 tấm phản gỗ cũng nhường cho các cô sinh viên. Tôi nhớ một người mẹ nghèo, mặc chiếc áo nhiều mụn vá. Mẹ có đứa con trai duy nhất đã đi bộ đội. Bữa ăn của mẹ chỉ là những lát chuối xanh cõng vài hạt cơm, vậy mà có củ khoai củ sắn mẹ cũng để phần cho chúng tôi. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu đã che bớt ánh sáng bằng tấm bìa, chúng tôi nghiên cứu văn học Việt Nam và thế giới. Mỗi khi nghe tiếng bom nổ chúng tôi lại chạy ra sân hướng về Hà Nội, pháo sáng rực lên, đạn pháo cao xạ đan dày, tiếng máy bay gầm rú, lòng thầm nghĩ giữa đạn bom mất mát hy sinh, mình còn sống đã là may mắn lại còn được học hành là mình đã mắc nợ bao người.

 

Sang năm học thứ 3 tôi vinh dự được Khoa cử tham gia đoàn đi thực tế vào Đội Thanh niên xung phong 245 Hà Bắc do Thầy Bùi Công Minh làm trưởng đoàn, cùng với thầy Văn Nhân và một số sinh viên có khả năng văn nghệ, hoạt động phong trào. Đội Thanh niên xung phong 245 có nhiệm vụ bảo vệ các tuyến đường từ Hà Bắc lên Lạng Sơn. Đặc biệt tuyến đường sắt có rất nhiều hầm. Bom Mỹ thường xuyên đánh sập các cửa hầm nhằm cắt đứt mạch máu giao thông vận chuyển hàng hóa, vũ khí và bộ  đội ra tiền tuyến. Ban ngày chúng tôi cùng các chị thanh niên xung phong san lấp hố bom, chuyển đất đá giải phóng những cung đường. Tối đến lại sinh hoạt văn nghệ. Tôi nhớ mãi hình ảnh thầy Văn Nhân, cao gầy, điềm đạm, tâm hồn nghệ sĩ. Thầy kiên nhẫn, tận tụy tập và đệm đàn cho tôi hát, biểu diễn phục vụ thanh niên xung phong. Thầy Bùi Công Minh thì góp ý cho những bài thơ tôi mới sáng tác. Thầy bảo chỉ cần cắt bỏ hai câu đầu và sửa vài từ sẽ thành một bài thơ hay. Tôi rất nể phục thầy, với tôi thầy là một nhà thơ. Vài năm sau đó thầy viết bài thơ “ Hành khúc ngày và đêm” được phổ nhạc trở thành ca khúc nổi tiếng. Hồi ấy tôi cũng không thể ngờ sau này mình lại trở thành một nhà thơ. Nhưng tôi biết những gì tôi đạt được hôm nay đều làm nên bằng ký ức.

 

 Giặc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, chúng tôi trở lại trường, được sống những ngày tươi vui hạnh phúc nhất của cuộc đời sinh viên; được đọc sách ở Thư viện, tham gia Hội thảo khoa học; gặp gỡ các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học, tổ chức Câu lạc bộ thơ sinh viên, giao lưu với các trường đại học…Hạnh phúc nhất là những đợt thực tập Sư phạm được làm cô giáo, hồi hộp, lo âu nhưng khi giảng bài thì bỗng nhiên như được siêu thoát.

 

30 tháng tư năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng cũng là lúc chúng tôi thi tốt nghiệp ra trường. Chúng tôi vui sướng không cầm được nước mắt, nhất là mấy đứa con gái có người yêu là lính cứ ôm nhau mà khóc, dù không biết ai còn, ai mất nhưng đất nước thì đã chấm dứt chiến tranh. Tôi hạnh phúc hơn các bạn tôi, vì, sau 21 năm tập kết ra miền Bắc gia đình tôi sẽ được trở về quê hương Khánh Hòa. Tôi  có người yêu vốn là  bạn cùng khoa Văn, nhập ngũ năm 1972, anh cũng trở về sau này trở thành bạn đời của tôi.

 

Cầm quyết định của Tổ chức khoa Văn ĐHSP, phân công tôi về Khánh Hòa dạy học, tôi ngỡ như mình bay trong mơ. Tôi đã kịp trở về dạy khóa học đầu tiên sau giải phóng tại trường PTTH Võ Tánh ( sau đổi tên là trường Lý Tự Trọng) T.P Nha Trang. Cuộc đời tôi từ đó trải bao thăng trầm, thành bại, nhưng trong khoảng sâu lặng nhất của lòng mình, tôi có một ngôi trường mang tên Đại học Sư phạm Hà Nội./.

 

Nha Trang, ngày 1 tháng 11 năm 2009

Lê Khánh Mai
Số lần đọc: 3035
Ngày đăng: 20.11.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Vòng luân hồi - Nguyễn Kim Anh
Chùm tạp bút ngắn (2) - Nguyễn Thị Hậu
Thiền trà - Huỳnh Kim Bửu
“Mái Tây” và Nỗi Lòng Thánh Thán - Phạm Lưu Vũ
Hà Nội ngày trở gió - Huỳnh Văn Úc
Dỗi hờn - Huỳnh Văn Dung
Cây của miền quê nghèo - Vinh Anh
Những đài sen. - Võ Quê
Aha! Hoàng đế cởi truồng! - Hiếu Tân
Bây giờ bỏ nhau - Thụy Vi
Cùng một tác giả
Nết (truyện ngắn)
Hỏi (thơ)