Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
847
116.684.081
 
Ba người đàn bà bên kia cồn bắp
Dương Ðình Hùng

Ánh sáng đủ cho tôi nhìn thấy người đàn bà gần như trần truồng ngồi trên giường. Cái khăn đỏ phủ phần giữa cái thân tàn úa, da bọc xương, tóc trắng bù xù, nhìn ra cửa sổ. Lùi lại nhìn kỹ cái hình trong túi áo, cái con người tang thương đó, đúng là dì tôi, dì Renê.

 

Dì Renê, chị cả trong nhà có ba người đàn bà ở Huế.

 

Chuyện của dì nhiều, tôi không nhớ đủ hết, từ cái ngày còn tấm bé, nghe mẹ kể chuyện dì Renê trong những bữa ăn.

 

Chưa một lần tôi gặp mặt dì. Dì có chồng là ông Tây nhà đèn, năm 1945 gì đó theo chồng vào Tourane - Đà Nẵng - rồi theo tàu chở hàng về Tây. Nửa thế kỷ sau, người dì trên 70 tuổi có cháu đến thăm, đến trong cái viện dưỡng lão vùng Avignon miền Nam nước Pháp, trên tầng lầu thứ năm, trong căn phòng nhỏ bằng lỗ mũi. Tôi chào dì bằng tiếng Pháp.

 

Dì Renê nhìn tôi xa lạ, ánh mắt con bò mùa khô hạn, nhiều chán chường. Có thể bà tưởng tôi là người hộ lý trong viện hay nhân viên sở xã hội cử đến . " Mười năm rồi không ai ghé thăm bà cả." Người phụ trách Viện cho tôi biết.

Tôi đến thì thầm bêntai dì :

- Con ở Việt Nam qua thăm dì Thi, con là con dì Thơ. (Mẹ tôi tên Thơ).

                                                            *

                                                        *      *   

Tôi lúng ta lúng túng, kể nhiều chuyện trong nước, chuyện ở Huế, chuyện cồn bắp bên kia nhà, có chè bắp có chùa mới xây... cố giấu giọt nước mắt lắp dưới bờ mi.

 

Miệng bà há lớn dần, thấy rõ còn vài cái răng lấp lánh . Tôi đưa cho bà xem vài tấm hình bà gởi về nước cho mẹ tôi, hình gia đình tôi, sợi  dây chuyền vàng 2 chỉ kỷ niệm dì Renê cho tôi 21 năm trước, ngày tôi có chồng... Có thể dì đã hiểu, hiểu một phần dĩ vãng dòng họ.

 

Dì ôm tôi hôn, cái hôn nhau nghĩ cũng lạ trong đời người.

Đứa cháu gái giờ đây được phép lau sạch cái thân già tàn úa của dì. Mồ hôi nhễ nhại mùa hè nước Pháp phủ luôn một màng tê tái trên làn da thiếu chăm sóc, thiếu người thân quen của dì.

Dì Renê giống bà cụ trên Buôn Mê Thuột, vào đốn cây rừng dưới nắng. Màu da dì Renê có trắng hơn nhưng hơi buồn chán, có chút cô đơn, xót xa.

                                                            *

                                                         *     *

Chải lại mái tóc dì , mặc cái áo , cái quần cho giống người. Điện thoại cho người phụ trách Viện dưỡng lão, tôi xin ở lại đêm, đóng 9 franc để có bữa ăn tối.

 

Ở lại trong chung căn phòng rộng gần 2 mét, dài 3 mét, có được một cái giường nhỏ, không tivi, không radio. Có một con chó trắng nhỏ, chó tên Tina, có lẽ chó buồn nên không sủa và còn có một cây đàn thập lục cũ treo trên tường trắng đục. Phòng dì nằm cuối cùng lầu năm, có nhiều phòng tương tự, có nhiều cụ già đang sống. Họ gần giống nhau, đôi mắt yếu, thích im lặng để nhớ đời người qua mau, có nhiều bất trắc, lạc loài. Tôi dìu dì Renê xuống sân, may còn cái vườn, lấp lánh những lá xanh và vài cụm hoa nhỏ, không thì buồn chết.

 

Mắt dì Renê mở rộng thêm sau bữa ăn tối, khuôn mặt dì tươi tỉnh lên, có lẽ lâu năm không có dịp ăn nhiều . Dì ăn chả Huế, cái miệng giống ăn trầu . Chả của tôi mang theo biếu dì.

 

Dì không ăn món soupe sền sệt đó, món thịt cừu thái nhỏ nấu với đậu dọn trên bàn . Dì chỉ ăn một góc lớn chả. Bữa ăn tối có chung nhiều người già, bóng dáng chập chững rất giống nhau. Bà nói tiếng Pháp thanh âm cộc cằn, nhát gừng cái "gu" già khó tính. Giọng Huế dì nặng chình chịch, cổ xưa như cái thang máy trong cái viện này.

 

Nằm cạnh dì buổi tối, tôi chiếm chỗ quen hàng đêm của con chó Tina. Đêm nay có lẽ Tina buồn.

 

 

 

Kể chuyện say sưa về cái thành phố mẹ tôi và dì Chút đang sống, cái cuộc đời có một giòng sông xanh, cái ngôi nhà thân quen trong khu vườn Vỹ Dạ có bình phong che chắn, có cái bến riêng trên sông, bên kia có cồn bắp, bắp nấu chè, nấu súp, bắp nướng. Cái phong cảnh phôi pha đó ba người đàn bà có quá nhiều dĩ vãng...

 

Đời người mẹ tôi như nhiều người khác, nuôi con nuôi cháu, nuôi cho đến chết, khác người Tây, người Mỹ vào trại dưỡng lão cho chính phủ trông chừng.

 

Dì Chút, em út của ba chị em đã trốn về nước hai năm, dì than buồn, sợ cái lạnh ở New Yersey  nước Mỹ, bỏ luôn con, luôn cháu, bỏ cái dinh cơ người con du học gầy dựng nên, bỏ luôn cái trông ngóng của hai đứa con.

 

Dì Chút về Huế sống với mẹ tôi, không cần hộ khẩu, ngày lên chùa nuôi trẻ mồ côi , dì mượn căn cước mẹ tôi để mua vé tàu đi Hà Nội . Dì tin không ai làm khó dễ, dì ước muốn khi dì chết cái thân xác được chôn cất tử tế.

 

Dì thường nói, dì sợ người ta thiêu xác rồi chôn chung mồ với những người xa lạ. dì sợ bị thiêu, dì sợ cái nóng của lửa. Dì sợ mấy chữ "lưu vong biệt xứ".

                                                            *

                                                         *     *

Sáng ngày mai, tôi mua cho dì vài sợi giây chuyền, vài chiếc nhẫn bằng kim loại rẻ tiền. Đêm qua dì bảo :

- Dì ước mơ có đồ chơi, đừng mua vàng rất nguy hiểm, dì không còn ai hết.

                                                            *

                                                        *       *

Ngôi chợ trời trong làng, kéo dài theo con đường lộ chính đến ngôi giáo đường cổ. Có nhiều dân Rệp bán hàng, có nhiều ngôi  nhà cổ kiến trúc Ý lạ mắt. Tôi không quên mua trái banh Tennis trọc lông , ít sợi thun để bà chơi thẻ, đếm thun.

 

Cuối chợ được lấp lối bằng đám đông người, nhiều ban nhạc du ca giữa công viên. Những ngôi nhà chung quanh hoàn toàn che lấp bởi hàng chục bức tranh trên tường , che luôn cánh cửa. Có cái bánh xe quạt  nước lâu đời nước Pháp đặt ngay trung tâm làng.

                                                            *

                                                         *     *

Ngồi bên dì Renê, trên bãi cỏ ngoài công viên, cái nắng ấm làm dì vui hơn,, cái khoảnh khắc còn lại. Gặp lại một người dì, có tiếng đẹp, cầm thi nổi tiếng, tiền bạc có thừa, thời gian xứ lạ đến nông nỗi rã rời. Tôi thử hỏi :

-  Tại sao và tại sao dì trần truồng ?.

Dì kể cái ông chồng Tây nhà đèn của dì mất gần hai mươi năm, vì ung thư gan. Thằng con trai đi lính chết đạn, bị tụi Rệp bắn khi tấn công vào đồn ở xứ châu Phi. Hai căn nhà quận 18 - Paris hiện nay đang cho thuê.

 

Dì buồn, xuống thành phố Tourane miền Nam để trốn dĩ vãng. Có đêm dì đi về khuya, bọn Rệp đánh dì ngất xỉu,lột trần, may có người cứu đưa vào bệnh viện.

Cuối cùng họ chuyển dì về đây cho vắng người. Mỗi tháng dì còn tiền hưu mười mấy ngàn francs, họ trừ hết tiền ăn, tiền điều trị, tiền mua thức ăn cho Tina, tiền khám thú ý... Dì không còn đồng dính túi . Tôi cho dì 50 franc dì xài rồi hỏi :

- Mỗi tháng dì có hơn hai ngàn đô, sao dì không về Việt Nam dì sống ? Dì Chút đã về Huế hai năm nay.

Bộ mặt dì hoang mang khủng hoảng đến tội nghiệp, đôi mắt ngờ vực đầy bất trắc luôn luốn có trên dì, nhất là khi nhắc đến quê hương mà dì đã rời bỏ.

 

Từ  hôm qua đến hôm nay tôi vẫn chú ý điều đó. Cái tâm thức dì Renê bị đè nặng trong nhiều năm tháng, những cái thông tin làm dì tẩu hỏa nhập ma, chối từ luôn mảnh đất sinh ra mình. Tôi trấn an dì :

- Con vẫn sống như hàng chục triệu người khác sống, con đi từ Huế đến đây ghé thăm dì .

                                                            *

                                                         *     *

Buổi chiều từ giã dì Renê, về lại thành phố Nice, công ty tôi có cuộc triển lãm thương mại quốc tế, gian hàng nhỏ nằm giữa công viên trung tâm, cạnh bãi biển, trong vùng Côtes d'Azur.

Ban đêm có nhiều xe hoa và thiếu nữ đẹp, có nhiều hoa ném kín đường đời, có nhiều ban nhạc diễu hành, có nhiều điều bất hạnh in dấu trong tiếng kèn đồng Phi châu dội vang giữa phố đông người.

Biên giới giữa tôi và dì Renê tại sao còn quá lớn, xa xôi làm sao ? Thôi thì buông xuôi vậy.

                                                            *

                                                         *     *

Ngày hôm qua, tôi kể một phần câu chuyện dì Renê, chuyện con chó Tina và dì Renê vẫn sống, vẫn ăn, ngủ với Tina, không chơi đàn tì bà nữa... cho giảm bớt thổn thức trông ngóng của mẹ và dì Chút.

Chiều tối, có hai người em gái bên kia cồn bắp lên chùa Tây Thiên, cạnh đàn Nam Giao, thắp nhang cầu an cho dì Renê và chó Tina, mong họ ngủ an bình trên chiếc giường nhỏ. "Họ" khác nhau một điểm, trong cái đầu con vật không có sự phá sản, không có sự tàn lụi, không có sự giẫy chết của linh hồn và tâm thức như ở con người./.

 

Dương Ðình Hùng
Số lần đọc: 3028
Ngày đăng: 25.08.2005
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đồng sàng dị mộng - Đổ Thị Hồng Vân
Cát trắng - Trầm Hương
Cô Tễnh ở Lục Đầu Giang - Nguyễn Văn Hoa
Nhân cách đói - Trọng Huân
Về một sự thật - Trần Văn Bạn
Không nói nữa - Phan Tử Nho
Những viên gạch nhà Văn miếu - Dương Ðình Hùng
Định mệnh trong ngôi nhà xưa . - Dương Ðình Hùng
Mùi Tôm Bạc Đất - Nguyễn Lê Hồng Hưng
Người Thầy của những tuyên ngôn - Đặng Thân