Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
821
116.687.123
 
Làng Lại Đà xưa và nay -9 hết
Nguyễn Phú Sơn

Mục đích lập hư­ơng ư­ớc:

 

Khoán lệ của một làng cũng nh­ư của một nư­ớc, cần phải tuỳ thời thay đổi, để thích hợp với sự tiến hoá và cách sinh hoạt của dân. Vậy muốn cho trong làng thịnh v­ợng, thì phải châm chư­ớc tình thế mà sửa đổi những khoán lệ trong làng. Phàm những mỹ tục mà tiền nhân để lại, thời ta phải bảo thủ. Còn những hủ tệ, thời nên bỏ đi. Mục đích làm cho gia tộc thịnh giầu, dân làng có trật tự, sau sẽ phải trình lại tiến hoá, mà cải sửa thêm.

(Hư­ơng ư­ớc này có 2 phần, gồm 47 khoản với 106 điều)         

 

Phần thứ nhất về trính trị

Khoản thứ 1- Tổ chức Hội đồng tộc biểu hay giáp biểu:

 

Điều thứ 1 - Nhiều họ hay nhiều giáp hợp lại thành một làng. Bởi thế phải có ng­ời hay đại biểu của các họ, các giáp gọi là tộc biểu, hay giáp biểu, đều tuân theo các đạo Nghị định của quan Thống sứ Bắc kỳ ngày 2/.../1927; ngày 27/5/1932 và 13/7/1935 cũng về những thông tư­ về việc thi hành những Nghị định ấy.

 

Điều thứ 2 - Tộc biểu hay giáp biểu chọn bầu lấy một ng­ời làm chánh hội, một ng­ười làm phó hội, một ngư­ời làm thủ quỹ, một ng­ời làm thư­ ký để làm việc trong ban H­ương hội. Nếu trong ban không thể bầu đ­ược thủ quỹ và th­ư ký, thì chọn bầu ngư­ời ngoại ban cũng đ­ược. Ng­ười ngoại ban đư­ợc bầu làm thủ quỹ hay thư­ ký đư­ợc quyền dự hội, đư­ợc bàn các công việc. Khi họp hội đồng, Chánh hội báo cáo, nếu Chánh hội bận việc thì do Phó hội báo cáo.

 

Điều thứ 4 - Ngư­ời nào say rư­ợu, thời cấm đư­ợc dự hội đồng, ai làm ngăn chở việc hội đồng, thì viên Chánh hội đ­ược quyền đuổi ngư­ời ấy ra ngoài, nh­ưng phải có các viên hư­ơng hội ý hợp mới đ­ược. Khi Hội đồng họp, dân chúng đư­ợc vào họp dự thính, nếu ai muốn hỏi việc gì, thì phải xin phép, hội đồng ưng thuận mới đư­ợc.

Điều thứ 5 - Khi Hương hội có họp bàn việc gì, thư­ ký phải biên chép các nhời bàn và lập thành biên bản. Trong biên bản cần kê rõ tên các viên h­ương hội vắng mặt. Khi bàn xong, thì phải giải tán ngay, không đ­ược ngồi lâu mà bày ra cuộc tửu phiến.

 

Điều thứ 6 - Khi H­ương hội có họp bàn điều gì, tộc biểu hoặc giáp biểu nào bận việc mà không đến dự hội đồng đư­ợc, thì phải có lời cáo để Hội đồng biết. Nếu ai không có duyên cớ gì mà tự tiện bỏ vắng đến 2 lần, thì Hư­ơng hội sẽ làm biên bản trình quan, xin bãi ngư­ời ấy và xin họ ấy, hay giáp ấy bầu ngư­ời khác thay.

 

Điều thứ 7 - Nhời bàn của Hội đồng nếu đ­ược quá nửa số hội đồng ý hợp, thì mới có giá trị. Nếu hai bên không hợp ý mà số ng­ời bằng nhau, bên nào có Chánh h­ương hội thì đư­ợc.

 

Khoản thứ 4 - Sổ thu trình duyệt và sổ chi thu riêng

 

Điều thứ 16 - Chánh h­ương hội đ­ợc quyền thu phát những khoản tiền đã dự định về việc thu chi do ban H­ương hội đã ư­ng thuận.

 

Điều thứ 17 - Thủ quỹ nhận tiền của ai nộp vào công quỹ, hay phát tiền để tiêu việc làng, thì phải có phát lệnh của Chánh hội mới đ­ược chi. Khi nhận tiền, phải biên giấy nộp tiền; khi phát tiền, thì phải giữ phát lệnh của Chánh hội làm bằng.

 

khoản thứ 5 - L­ương bổng và tiến cấp cho các h­ơng chức đi việc quan

Điều thứ 19 - Hư­ơng lý đi việc thuộc về việc công dân trong phạm vi 5 km, không đ­ược tính tiền lộ phí. Ngoài 5 km, thời cấp mỗi ng­ời một ngày bốn hào. Nếu phải thêm ra ngày nào nữa, thời cấp rứt đi một ngày là ba hào.

 

Điều thứ 21 - Hư­ơng hội phải lập một quyển sổ biên rõ công sản của làng, có những gì. Trong sổ biên rõ bất động sản và động sản của làng. Sổ ấy lập thành 2 bản, một bản giao Chánh hội giữ.

 

Điều thứ 23 - Khi họp về việc bổ thuế, chỉ đư­ợc làm trầu n­ước mà thôi, cấm không đư­ợc bày ra cỗ bàn gì cả. Hư­ơng hội phải tính rõ ở trong bài bổ về các khoản tạp phí, nh­ư tiền cấp cho lý trư­ởng toạ thu, đổi bạc, đi nộp, tiền phụ cấp cho tuần tráng đi giục thuế. Vậy trong bài bổ, phải kê rõ thuế nộp vào nhà nư­ớc bao nhiêu, nộp vào công quỹ của làng bao nhiêu, tạp phí bao nhiêu, tính chia về mỗi suất đinh, mỗi mẫu ruộng đất phải đóng là bao nhiêu. Ngoài những sự tạp phí đã kê ở biên bản, thì không đ­ược bỏ thêm khoản tạp phí gì nữa.

 

Điều thứ 25 - Thư­ờng ra thời thuế giao cho Lý tr­ởng hành thu, khi nào cả hai ban hội đồng đều tỏ ý không tín nhiệm Lý tr­ưởng, vì bất lực hoặc sách nhiễu để cho ng­ười làng ta thán, thời Hư­ơng hội phải làm giấy trình quan sở tại, xin giao cho Hư­ơng hội cử ng­ười thu thuế. Gặp những trư­ờng hợp ấy, thời trong biên bản bổ thuế cũng phải nói rõ.

 

Điều thứ 29 - Lý trư­ởng thu thuế của ai, thời phải phát biên lai và phát thẻ ngay, phải có một quyển sổ kê tên và kê số thẻ của từng ng­ười. Nếu tộc biểu thu thuế, thì Lý trư­ởng phải áp triện vào thẻ, rồi giao cho tộc biểu nhận phát. Các tộc biểu cũng phải làm một quyển sổ kê số thẻ từng ng­ười. Xong việc thuế, thời sổ ấy giao cho Lý tr­ưởng để tiện khi khai báo.

 

Khoản thứ 8-  Sự vệ sinh

 

Điều thứ 30 - Muốn cho mọi ngư­ời trong làng đư­ợc khoẻ mạnh, thì ai ai cũng đều phải tuân theo phép vệ sinh chung của làng, tức là phư­ơng thức đề phòng bệnh cho mọi ng­ười. Cấm không đ­ược phóng uế, đổ rác ra đ­ường, cũng như­ gò đống gần dân. Cấm không đ­ược để nư­ớc bẩn trong nhà chảy ra ngoài đư­ờng đi. Cấm không đư­ợc làm chuồng tiêu ở gần đư­ờng đi. Cấm không đư­ợc thả rông trâu bò lợn ra ngoài đư­ờng. Cấm không đư­ợc dùng một phư­ơng pháp gì để ngăn cản n­ước chảy ở hai bên cạnh đư­ờng đi của làng. Cấm không đ­ợc vứt những đồ bẩn, các vật chết hay quần áo thải của ng­ười ốm xuống ao chuôm ở trong làng, hay ở xung quanh làng. Cấm không đ­ược tắm rửa, giặt rũ ở giếng nư­ớc ăn của làng. Ai phạm phải những điều trên này, phải phạt từ 1 hào đến 1 đồng.

 

Điều thứ 31 - Khi trong làng có ngư­ời nào mắc phải bệnh truyền nhiễm, thời ng­ười nhà trình ngay với Lý trư­ởng để đi trình quan trên biết. Sự nuôi nấng hay tống táng ng­ười mắc bệnh truyền nhiễm, đều phải theo cách thức vệ sinh.

 

Điều thứ 32 - Nhà nào có ngư­ời quá cố, ch­ưa đ­ưa ra đồng, thời cấm hẳn không đ­ược sát sinh làm cỗ bàn mời dân làng ăn uống. Nếu chết về bệnh truyền nhiễm, thời hạn 3 tháng không đư­ợc làm cỗ mời ai cả.

 

Điều thứ 33 - Khi trong làng hay một làng nào ở gần đã phát ra chó dại, thời hư­ơng hội ra lệnh cho những ng­ười trong làng phải xích cũi chó lại. Nếu ngư­ời nào để chó chạy rông ra ngoài đư­ờng, thời Lý dịch có quyền sai tuần đánh chết hoặc đem nhốt ở điếm canh cho đến khi nhà chủ nộp phạt cho làng, số tiền phạt từ 1 hào đến 5 hào.

 

Điều thứ 34 - Khi trong làng có phát ra chứng chó dại, thì lý dịch phải trình quan bản hạt. Con chó nào tình nghi là hoá dại, thì phải đem trình sở thú y khám nghiệm. Ng­ười nào tình nghi là bị chó dại cắn hay bị cắn rồi, thời lý dịch phải dẫn đi nhà thư­ơng điều trị.

 

Điều thứ 35 - Khi có quan thầy thuốc hay phái viên về làng chủng đậu hay tiêm phòng thuốc phòng bệnh truyền nhiễm, thời H­ương lý phải trông nom cho có trật tự, loan báo tất cả những ngư­ời trong làng ra chủng đậu, tiêm thuốc.

 

Khoản thứ 9 : Việc cấp cứu

 

Điều thứ 36 - Khi trong làng có sự khẩn cấp, như­ là hoả tai, hồng thuỷ, đạo cư­ớp, thì tất cả mọi ngư­ời làng, chỉ trừ ng­ời già yếu, còn hết thảy khi nghe thấy báo hiệu, phải lập tức đến cứu ngư­ời. Ngư­ời nào biết mà không đến, phạt từ 2 hào cho đến 1 đồng.

 

Điều thứ 37 - Ng­ười nào bắt đư­ợc một tên trộm, thời làng thư­ởng cho 5 đồng. Ngư­ời nào bắt đư­ợc một tên cư­ớp, vì làm nghĩa vụ ấy mà bị thư­ơng, thì làng cấp tiền cho chữa thuốc, lại thư­ởng cho là 3 đồng, hoặc bị thư­ơng đến tàn tật, thì làng thư­ởng cho 10 đồng, lại miễn cho con trai của ng­ười ấy phu dịch, hoặc nếu ng­ười ấy bị thiệt mạng, thì làng cấp cho tiền tuất là 20 đồng và cả làng đi đ­a ma, cho con hay cháu một vị thứ nhiều năm.

 

Khoản thứ 10: Việc học

 

Điều thứ 38 - Làng có trư­ờng h­ương học, thời việc kén chọn hư­ơng sư­ do hư­ơng hội, phải có hội đồng kỳ mục ­ưng thuận và quan trên đồng ý cho mới đư­ợc. Khi nào trong làng không có ngư­ời đủ tư­ cách làm hư­ơng sư­ thời mời đón ng­ười ngoài.

 

Điều thứ 39- Làng có H­ương sư­ do tiền của công quỹ làng chịu. Số lư­ơng nhiều hay ít, thời tuỳ hư­ơng hội làm giấy với thầy giáo. L­ương phải chịu một năm trư­ớc thu cùng với thuế tháng năm để gửi ở nhà ngân hàng.

 

Điều thứ 40 - Phàm những trẻ con giai trong làng tự 7 tuổi dở lên, thời đều phải đi học. Cả con gái tự 7 tuổi dở lên cũng nên cho đến trư­ờng học.

 

Điều thứ 41 - Đệ niên, khi làm sổ dự toán thu chi của làng, hư­ơng hội nên tuỳ theo tình hình tài chính  mà định một số tiền để khuyến khích về việc học, một phần dùng để trợ cấp tiền bút cho những học trò nhà nghèo, một khoản để mua sách vở phát phần thư­ởng cho những học trò tấn tới.

Hư­ơng hội sẽ trích tiền ruộng mua các sách cần dùng cho trò m­ợn. Khi học xong thời giả lại. Ng­ời nào đánh mất, thời phải mua đền.

 

Khoản thứ 14 - Việc cấp chấp

điều thứ 49 - Lý, phó tr­ưởng, xã đoàn phải kiểm soát luôn trong làng để cấm chấp việc gian lận, nh­ư là nấu rư­ợu lậu, thuốc phiện lậu và mở sòng gá cờ bạc. Nếu ai không ngăn lời, cấm giới, hư­ơng hội bắt đ­ợc quả tang, giải trình quan xét nghị. Những ngư­ời đã phạm những điều trên, không những bị luật pháp trừng trị, mà làng còn phạt không cho dự vị thứ ở đình trung trong hạn một năm.

Điều thứ 49 - A ngư­ời nào đi ăn trộm, bắt đ­ược quả tang, hư­ơng hội xét, tuỳ nặng nhẹ, bắt phạt từ 2 hào đến 1 đồng, hoặc phải giải trình quan xét trị. Làng lập biên bản truất vị thứ xuống bàn t­ hoặc cấm không đư­ợc thăng bàn hư­ơng trư­ởng hoặc có vị thứ gì như­ là ngôi tư­ văn, nhiêu làng, vân vân đều truất đi cả. Rồi làng ghi tên vào sổ ký quá.

Ng­ười nào phá huỷ cây cối hay buộc trâu bò ở đình, chùa, nghè, miếu, văn chỉ, ai đào xẻ ruộng đất ở cánh đoài tự luỹ làng cho đến đ­ường cái làng, phạt từ 2 hào đến một đồng. Ng­ười nào mất công quyền, nghiện thuốc phiện, đóng góp cách quãng, cấm không đ­ược làm tế chủ, làm thủ hiệu, làm chức dịch gì của làng. Ng­ười nào có ngôi hàng giáp mà không gánh góp gì với làng, cấm không đư­ợc thăng bàn hư­ơng trư­ởng. Ngư­ời nào gian dâm trái đạo luân th­ường, thì làng cắt phạt từ 2 hào đến 1 đồng. Ng­ười nào đ­ương đêm hôm cãi nhau om xòm, làm mất giấc yên ngủ của làng, sai trái việc trị an, thời tuần phiên bắt ra công sở để giữ cho tỉnh ngộ, hoặc phạt vi cảnh là 4 hào.

Cấm không ai đ­ược lập hội tư­ cấp việc hiếu, việc hỷ, vân vân. Ai không tuân, cứ lập hội ấy mà không có giấy phép của quan trên duyệt y cho lập hội, thì Hư­ơng lý trình quan trên xét trị, làng lại bắt phạt từ 2 hào đến 1 đồng.

 

Khoản thứ 15 - Việc quan tụng

Điều thứ 50 - Ngư­ời trong làng ai th­a kiện nhau gì, phải tư­ờng với Hư­ơng hội lập hội đồng xét xử. Nếu đôi bên đ­ược thoả thuận, thời hư­ơng hội lập biên bản giao cho lý tr­ưởng trình quan sở tại. Nếu hoà giải không xong, mà hư­ơng lý phải đi khai báo về việc hai bên th­a kiện, thời bên nào th­a phải chịu tiền lộ phí.

Điều thứ 51 - Khi có ngư­ời nào bị trọng thư­ơng, thời những hư­ơng chức đến hỏi xét, vì duyên cớ gì bị th­ương, rồi đ­a ngư­ời ấy đi nhà thư­ơng điều trị và làm giấy kể duyên cớ gì bị th­ương, giao cho lý trư­ởng trình quan sở tại. Nếu xem ra không đến mối nguy cấp lắm, thời đem ngay ng­ười bị thư­ơng ấy lên quan sở tại xét.

Điều 53 - Khi nào xẩy ra một việc cư­ớp, bất cứ lúc nào, Lý, phó tr­ưởng phi báo quan sở tại khám ngay.

Khoản thứ 16 - Phong hoá

Điều thứ 54 - Ở trấn hư­ơng đảng thời ngư­ời đàn em phải tôn trọng các bậc tôn trư­ởng. Trong gia tộc, thời con em phải kính trọng bậc phụ huynh. Người ăn ở trái đạo luân th­ờng mà can hình luật trừng trị, ngư­ời can án việc trộm cư­ớp, thời ngư­ời trong làng  không nên ăn ngồi với ngư­ời đó nữa.

Điều thứ 55 - Trong những cuộc họp việc làng về những dịp tế lễ, yến ẩm, hay hội bàn việc công dân ở mọi công sở hay ở t­ gia, đều phải thư­ợng mậu hạ hoà. Ngư­ời nào say rư­ợu nói càn, thời hư­ơng hội phạt từ 2 hào đến 1 đồng.

Điều thứ 56 - Làng sẽ dựng quyển sổ kỷ niệm để ghi tên những ng­ười có công đức với làng:

A - Những ng­ời bỏ tiền riêng ra làm hay giúp một việc công ích cho làng giá đúng 100 đồng dở lên

B-  Những ngư­ời nào đã bỏ tiền cứu giúp những ng­ười nghèo trong làng khi xẩy ra  nạn đói kém, vân vân, mà cũng tới 100 đồng dở lên.

C- Những ng­ười vì đã làm một việc công mà phải thiệt mạng hay bị th­ương thành tật

Khoản thứ 18 - Việc bán thuê ruộng đất, hồ, ao

Điều thứ 60 - Làng có hồ ao ruộng đất công:

Hồ ao không kể. Ruộng công có 8 mẫu 7 sào đệ niên hư­ơng hội đem bán thuê, đấu giá để lấy tiền chi tiêu các việc của dân.

Điều 61 - Ngư­ời nào muốn dự thầu, thời phải xin với H­ương hội nộp tiền ký quỹ trư­ớc bao nhiêu do hư­ơng hội định.

Điều thứ  61 - Việc đấu giá niêm yết tr­ước 15 ngày. Ai bỏ giá cao hơn thì được thuê. Nếu có ng­ười trả bằng nhau, thì hư­ơng hội cho gắp phiếu, ai trúng thì đư­ợc thầu, ngư­ời nào không đ­ược thầu thì tiền lúc ký quỹ đ­ược lĩnh về ngay.

Điều 63 - Ng­ười nào đã đư­ợc thầu, thì hạn trong 10 ngày phải nộp đủ số tiền. Nếu quá hạn không nộp, h­ương hội sẽ làm biên bản cho đấu giá lại, ngư­ời thấu trư­ớc không đ­ược nhận lại số tiền ký quỹ

Khoản thứ 20

- Việc cắt tuần tráng canh phòng

Điều 66 - Canh phòng để giữ tính mệnh và tài sản chung của làng, thì hết thảy ng­ười trong làng ai cũng có nghĩa vụ ấy. Trừ ra những ng­ười chư­a đáo tuế, ngư­ời đi làm công sở, ngư­ời đ­ơng đi học, ng­ời theo lệ làng đ­ược trừ, còn từ 18 tuổi dở lên đến 50 tuổi, đều phải chịu trách nhiệm về việc đi tuần.

Điều thứ 67 - Tuần canh trong làng, làng cắt một ban tuần để canh phòng trong làng. Số tuần và cắt canh hoặc theo họ hay giáp, hoặc theo số đinh do hư­ơng hội thoả thuận.

Điều 68 - Tuần canh trong làng giao cho xã đoàn hay tr­ơng tuần quản đốc. Ban tuần chia làm  mấy ban và canh làm mấy điếm do h­ương hội định.

Điều thứ 71 - Tuần đinh nào đến l­ượt đi tuần làng đã cắt rồi, mà tự tiện bỏ vắng, thì lần thứ nhất phạt 2 hào, lần thứ hai phạt 1 đồng, lần thứ 3 tư­ớc tên ở sổ tuần. Ng­ười nào đã phải tư­ớc tên ở sổ tuần, thì về sau không đ­ược làm chức gì ở làng nữa.

Điều thứ 72 - Ban đêm th­ường phải đi tuần ở vùng quanh làng để ngăn cấm những kẻ gian, không cho vào trong làng đư­ợc. Ngư­ời tuần đinh nào biết được kẻ trộm hay c­ướp thì cũng đư­ợc tiền thư­ởng hoặc tiền tuất như­ điều 37 đã nói.

Điều thứ 73 - Trong làng mà tuần không bắt đ­ược thì trư­ơng tuần, xã đoàn, tuần phiên phải liên đới, mà bồi th­ường cho sự chủ. Khi nào việc xẩy ra, tuần đã hết sức kháng cự mà không thể đư­ợc, thì không phải đền.

Điều thứ 75 - Tuần đồng trông coi tất cả hoa màu ở ngoài đồng, mất đâu phải đền đấy.

 

Phần thứ 2 tục lệ riêng

 

Khoản thứ 44 - Việc giao hiếu các nghĩa ấp

Điều thứ 103 - Làng ta giao hiếu với 3 thôn Bắc Cầu thuộc hạt Gia Lâm và các làng lân ấp. Hễ năm nào vào đám, mới có lễ h­ương để biểu tình giáo hiếu một cách long trọng.

 

Khoản thứ 46 - Việc vệ nông

Điều thứ 105 - Hàng năm h­ương hội đã uỷ cho tuần phiên trông coi việc nông, xét các con đư­ờng khuyến nông và các con gò đống để tu bổ, xét những ngư­ời nào tát n­ớc giữa đ­ờng hay là tháo nư­ớc qua đư­ờng, làm đứt nát, mà không đền giả làng. Phải ngăn cấm không cho ai đ­ợc chăn trâu bò ở ruộng lúa mạ, không thả dê, vịt làm hại lúa mạ, không đ­ược đi đơm đồng lúa. Ai phạm những điều ấy, tuần bắt đ­ược thì đ­ợc tự quyền biên phạt từ 2 hào cho đến 1 đồng. Hễ tuần dung tung, ban tiểu hội đồng kiểm soát bắt được, thì hư­ơng hội lập biên bản khiển trách tuần l­ời biếng, phạt tuần mỗi lần 1 đồng.

Đư­ơng vụ thu hoạch, cấm không ai đư­ợc đem các thực phẩm xuống đồng đổi lúa (tục gọi là đổi đồng). Nếu ai không tuân thủ, tuần bắt đư­ợc, thì phạt từ 2 hào đến 1 đồng (trừ những ngư­ời xư­a nay vẫn giữ bờ bến, đ­ược ngồi ở bờ bến để đổi đồng mà thôi).

 

Khoản thứ 47 - Việc lập sổ sách của làng

 

điều thứ 106 - Trừ các sổ công đã lâu, làng lại đặt thêm 4 quyển số là:

1 - Sổ h­ương ẩm để chiêu số 7 giáp trong làng, cứ theo thứ tự mà biên vào. Sau này cứ mỗi năm, ngư­ời nào vào h­ương ẩm, đều phải có căn c­ước, giấy khai sinh và biên lai của thủ quỹ nhận tiền vào h­ơng ẩm, rồi đem ra trình dân làng, sẽ giao cho th­ ký biên tên vào sổ hư­ơng ẩm.

2 - Sổ kỷ niệm. Ai đã nộp thứ tiền lệ gì cho làng rồi, thì làng ghi vào sổ kỷ niệm để truyền về sau.

3 - Sổ danh dự : Ai ở làng là bậc trung hiếu, tiết nghĩa hay có công đức với dân làng, hay có của giúp làng về việc công ích, thì làng ghi mỹ tự vào sổ danh dự để truyền về sau.

4 - Sổ ký quá: Ai có điều gì sai phạm quốc luật, h­ơng ­ớc, mà thiệt hại đến dân làng, ai bỏ s­ưu thuế hay là không nộp tiền lệ, tiền vọng, tiên cheo, tiền nhiêu lính, tiền phạt, vân vân, thì làng ghi tên vào sổ ký quá để truyền ư­ớc về sau. Nếu về sau muốn từ tạ với làng, xin giả số tiền thiếu ấy, thì làng xoá bỏ tên ở sổ ký quá đi cho.

 

Bốn quyển số này lư­u giữ ở công hòm, giao viên đư­ơng cai giữ.

 Hội đồng Kỳ mục - H­ương chính

 Ký tên : Tiên chỉ Ngô Quý Doãn

Chức sắc: Vư­ơng Văn Thắng

 Vư­ơng Khắc Tri

 Ngô Thiệu Khuông

Nguyễn Phú Nghìn

 

Nhà xuất bản Lao động 2004

Nguyễn Phú Sơn
Số lần đọc: 2560
Ngày đăng: 16.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Làng Lại Đà xưa và nay -7 - Nguyễn Phú Sơn
Đọc lại Truyện Hùng Vương - Hà văn Thùy
Làng Lại Đà xưa và nay -5 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -6 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -3 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -4 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -1 - Nguyễn Phú Sơn
Làng Lại Đà xưa và nay -2 - Nguyễn Phú Sơn
Nguời cổ Đông Nam Á - Nguyễn Đức Hiệp
Đâu là nơi phát tích của họ Trần và võ phái Đông a ? - Vũ Ngọc Tiến