Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
616
116.671.647
 
Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ quốc ngữ : Phải chăng cần viết lại lịch sử ? - 2
Nguyễn Đăng Trúc

 

Roland Jacques - Người dịch Nguyễn Đăng Trúc

 

Chú Thích

 

1. (a) Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum, Roma, S.C. de Propaganda Fide, 1651; tái bản bằng bản chụp với phần phiên dịch việt ngữ hiện hành: Từ Điển Annam-Lusitan-Latinh, TP Hồ Chí Minh, Nhà xb. Khoa Học Xã Hội, 1991.

     (b) Catechismus pro ijs, qui volunt suscipere Baptismum, in octo dies divisus. Phép Giảng Tám Ngày..., Roma, S.C. de Propaganda Fide, [1651]; tái bản bằng bản chụp với phần dẫn nhập của Nguyễn Khắc Xuyên, phiên dịch việt ngữ hiện hành do André MARILLIER và pháp ngữ do Henri CHAPPOULIE, [TP Hồ Chí Minh], Tủ sách Đại Kết, 1993.

2. Jean- Louis TABERD: Dictionnarium Annamitico- Latinum, Serampore (Ấn Độ), 1838.

3. Sắc luật đưa chữ quốc ngữ vào các kỳ thi do toàn quyền Paul Doumer ký từ năm 1898; nhưng được áp dụng dứt khoát vào năm 1909. Năm 1917, một chỉ dụ của triều đình bãi bỏ lối giáo dục truyền thống và thay bằng một nền giáo dục dựa vào chữ quốc ngữ và pháp ngữ. Xem Nguyễn Thị Chân Quỳnh, “Concours de mandarins”, trong La Jaune et la rouge [Paris, école Polytechnique], số 525, 5.1997(tr. 31-37), tr.36-

4. Georges TABOULET, La geste française en Indochine: Histoire par les textes de la présence de la France en Indochine des orgines à 1914, 2 tập, Paris, Adrien Maisonneuve, 1955-1956: tập I, quyển I, chương I, trang 9-22.

5. Cha của Rhodes người Marranne Aragon và mẹ người Ý; trong gia đình có lẽ Rhodes đã sử dụng tiếng Tây Ban Nha, Ý và ngay cả tiếng Do thái (!)... Về các xác quyết bấp bênh nầy, xem lời minh xác lại của Michel BARNOUIN: "gốc gác cha mẹ của Alexandre de Rhodes người Vaucluse (1593-1660)" trong Mémoires de l’ Académie de Vaucluse [Avignon], 8e série, 4, 1995, trang 9-40; và thư mục đã dẫn.

6. Trong thời gian chúng tôi viết bài nầy, xác quyết đó một lần nữa được François RIDEAU lặp lại, ịMes rapports avec la langue vietnamienneỐ, trong La jaune et la rouge [Paris, école Polytechnique], số 525, 5. 1997, trang 25-30: trang 27.

7.  Chúng ta sẽ trở lại trong đoạn sau về việc có một số tu sĩ dòng Phanxicô người Tây ban nha bị lạc vào bờ biển của Việt Nam từ 1583-1584, nhưng không lưu lại dấu vết nào và cũng không hề học được những khái niệm về ngôn ngữ địa phương.

8. André Georges HAUDRICOURT, "Origine des particularités de l’ alphabet vietnamien", trong tập san Dân Việt Nam (Trường Viễn Đông Bác Cổ [EFEO] 3, 1949, tr. 61-68. Ngoài ra, Haudricourt là tác giả các bài biên khảo về tiếng Việt và lịch sử tiếng nầy; trong số đó có bài "Les consonnes préglottalisées en Indochine"Á, trong Bulletin de la Société de Linguistique de Paris 46, 1950, tr. 172-182; "ÏLes voyelles brèves du vietnamien"Á, tlđd. 48, 1952, tr.90-93; "La place du vietnamien dans les langues austroasiatiques", tlđd. 49, 1953, tr. 122-128; "De l’ origine des tons du vietnamien"Á, trong Journal Asiatique 242, 1954, tr. 69-83; v.v...

9.  Alexandre de Rhodes, Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres Royaumes de l’ Orient, Paris, Sébastien Mabre-Cramoisy et Gabriel Cramoisy, 1653; tái bản bằng bản chụp với phần dịch chuyển dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ [bút hiệu của Nguyễn Khắc Xuyên], TP Hồ Chí Minh, Tủ sách Đại Kết, 1994; phần 3, tr. 78-79.

10.  Xem John DE FRANCIS, Colonialism and Language Policy, La Haye, 1997. Cũng xem chú thích 71.

11.  Vào năm 1941, tấm bia được dựng trong một đền thờ nhỏ trên bờ hồ Hoàn Kiếm, trước đền Ngọc Sơn. Nhà thờ nhỏ đó bị đập phá để có chỗ xây một đền đài cách mạng. Tấm bia bấy giờ do một tư nhân đem về nhà sử dụng tùy nghi. Năm 1995, người ta không thể đặt lại chỗ cũ, nên đã chọn một chỗ xứng đáng đó là Thư viện Quốc gia, cách đền thờ cũ không xa.

12.  Xem "Let’s do Justice to Alexandre de Rhodes", trong Vietnam Social Sciences (Hà Nội) 40, 2/1994, tr. 88- 89, trong một bài viết của MINH Hiền đăng trên tuần san Lao Động (Hà Nội) ngày 21.11.1993. Cũng xem cuộc hội thảo khoa học tổ chức về Alexandre de Rhodes tại Hà Nội, ngày 22.12.1995 do Bộ Văn Hóa và Trung Tâm Quốc Gia Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn (tài liệu sẽ xuất bản). Trong cuộc hội thảo nầy, phó thủ tướng Nguyễn Khánh, một trong những nhân vật cao cấp của nhà nước đã chính thức lên tiếng về đường lối muốn phục hồi danh dự cho cha Rhodes. Đây là nguyên văn lời nói đó: “Alexandre de Rhodes, nhà hoạt động văn hóa cống hiến cho sự phát triển quốc ngữ và văn hóa Việt Nam” - trong Xưa và Nay (Hà Nội), [cơ quan ngôn luận của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam], 1/1995, tr. 19-20.

13.  Chúng tôi nêu lên ý kiến nầy qua hai tác phẩm có giá trị khoa học cao, trong số các tài liệu xuất bản gần đây:

    - (1). Pierre-Richard Féray, Le Việt Nam, Paris P.U.F., 1984, về những ảnh hưởng văn hóa Âu châu vào thế kỷ 17, trang 18: "Trong lúc nhà Trịnh (Đàng Ngoài) kêu cứu viện trợ của người Hòa Lan [...], thì nhà Nguyễn lại cầu cứu người Bồ đào nha, rồi đến người Pháp, và không ngại tiếp rước các nhà truyền giáo dòng Tên đến độ cha Alexandre de Rhodes, từ năm 1650 đến 1660, đã có ý kiến chuyển chữ viết bằng vần latinh. Chữ quốc ngữ như thế được khai sinh".

     -(2) Josef METZLER, Die Synoden in Indochina: 1625-1934, [các hội nghị giám mục ở Đông dương 1625- 1934], Paderborn / Munich / Vienne / Zurich, Ferdinand Schưningh, 1984. Nối tiếp phần lớn các sử gia đi trước về các cuộc truyền giáo của Công giáo, tác giả gán cho Rhodes phần chính yếu của nỗ lực truyền giáo nầy; sau đó tác giả nói rõ ở trang 7: "Qua những công trình nghiên cứu khoa học của ông, [Rhodes] trở thành người khai sinh ra chữ viết của Việt Nam và chuyển qua mẫu tự latinh, được sử dụng đến hôm nay".

14.  Về vấn đề bảo trợ của vua Bồ đào nha đối với công cuộc truyền giáo Đông phương, đặc biệt nên đọc: António DA SILVA REGO, Le Patronage portugais de l’ Orient, aperçu  historique, Lisbonne, Agência Geral do Ultramar, 1957; Alelhelm JANN, Die katholischen Missionen in Indien, China und Japan: Ihre Organisation und das portugiesische Patronat, vom 15. bis ins 18. Jahrhundert [Các cuộc truyền giáo công giáo tại ấn độ, Trung Hoa và Nhật Bản. Công việc tổ chức và sự bảo trợ của Bồ đào nha từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII], Paderborn, Ferdinand Schưningh, 1915.

15.  Trong hậu bán thế kỷ thứ XVI, Tây ban nha dần hồi đến và định cư lâu dài tại Phi luật tân. Nhưng những mưu toan của người Tây ban nha nhằm nối một đầu cầu với lục địa Á châu, đặc biệt tại Đông dương, sẽ không có kết quả nào. Về các nổ lực nầy, ngoài các tài liệu khác nên đọc L.P. BRIGGS, "Missionnaires Portugais et Espagnols au Cambodge, 1555-1603" trong Bulletin de la Société des études Indochinoises 25, 1950; A. GALLEGO, "Espanõa en Indochina, Expediciones religioso-militares" trong Espanõa misionera, 7, 1951, tr. 298 - 310; Benno BIERMANN, "Die Missionsversuche der Dominikaner in Kambodscha" [Những nỗ lực truyền giáo của các tu sĩ dòng Đaminh tại Cam Bốt]; trong Zeitschrift für Missionswissenschaft und Religionswissenschaft [Tập San những khoa học truyền giáo và tôn giáo (Mơnster) 23, 1933, tr. 108-132.

16.  Thời điểm Afonso de Albuquerque chiếm Malacca. Xem Genevière BOUCHON, Albuquerque: Le lion des mers d’ Asie, Paris, Desjonquères, 1992. Việc chiếm Malacca một mặt giúp người Bồ đào nha mở rộng con đường hàng hải đến các đảo sản xuất gia vị ở vùng biển Nam Thái bình dương, mặt khác mở đường đến Trung Hoa và Nhật Bản.

17.  Nên đọc Pierre-Yves MANGUIN, Les Portugais sur les côtes du Viêt-nam et du Campa, étude sur les routes maritimes et les relations commerciales, d’ après les sources portugaises des XVIe, XVIIe, XVIIIe siècles, Paris, EFEO, 1972; Roderich PTAK (ed.), Portuguese Asia: Aspects in History and Economic History (16th-17th centuries), Stuttgart, F. Steiner, 1987; Anthony REID, Southeast Asia in the Age of Commerce (1450-1680), vol.I, The Lands below the Winds, New Haven et Londres, Yale University Press, 1988. Đáng lưu ý là trong DéCADA XIII, nói đến thời kỳ từ 1612 đến 1617 vào lúc các tu sĩ dòng Tên mở đường truyền giáo đến Việt Nam, nhà chép sử biên niên chính thức người Bồ đào nha António BOCARRO chỉ nói thoáng một lần về xứ nầy; và cũng chỉ nói gián tiếp, nhân nói đến nước Xiêm, như là miền sản xuất ra lụa, do người Anh và Hòa lan du nhập vào xứ nầy. Xem Decada XIII da Historia da India composta por Antonio Bocarro chronista d’ aquelle estadto [...]. xb. do Rodrigo José De Lima Felner, 2 tập, Libonne, Academia Real das Sciencias, 1876: tập 1, tr. 530.

18.  Cha dòng Tên Francisco de Jasu y Javier [Xavier], 1506-1552, gốc người Navarre, đã thực hiện công cuộc truyền giáo của mình tại Á châu với tư cách vừa là sứ thần của Giáo hoàng vừa là khâm sứ của vua Bồ đào nha. Xem Georg SCHURHAMMER, Franz Xaver, Sein Leben und seine Zeit, 3 quyển, Fribourg-en- Brisgau, Herder, 1955-1971: Francis Xavier: His life, his time, 4 tập, Roma, Institutum Historicum Societatis Iesu, 1973-1982. Tiếng Pháp có: Alexandre BROU, S. François-Xavier, 2 tập, Paris, Beauchesne, 1922; hoặc gần đây hơn: James Brodrick, Saint  François-Xavier (1506-1552), Paris, Spes, [1954], bản dịch của: Saint  François-Xavier, Londres, Burns Oates, [1952]. Về qui chế pháp lý của Phanxicô Xavie, xem Joseph WICKI, "Der hl. Franz Xaver als Nuntius Apostolicus", trong Studia Missionalia 3, 1947, tr. 107-130.

19.  Kế hoạch truyền giáo nầy có lúc người ta cho là do Alexandro Valignano, người tổ chức các công cuộc truyền giáo dòng Tên tại Viễn Đông (sinh năm 1537 tại Chieti, Vaignano làm Tuần thị các vùng truyền giáo dòng Tên ở Đông phương từ năm 1573, và từ năm 1583 làm Giám tỉnh của tỉnh dòng Ấn Độ, bấy giờ gồm cả toàn khối Viễn Đông. Ngài chết tại Macao năm 1606). Kỳ thực quan điểm nầy phát xuất từ chính Phanxicô Xavie. Linh mục dòng Tên người Navarre nầy từng có kinh nghiệm về ảnh hưởng của Trung Hoa trên Nhật Bản, và những khó khăn mà người Nhật gặp phải khi bỏ những đạo lý đến từ Trung Hoa để theo Kitô giáo. Trong một bức thư luân lưu ngày 21.01.1552, ngài viết: ” Tôi tin là trong năm 1552 nầy, tôi sẽ đi gặp vua Trung Hoa, đây đúng là một xứ mà luật của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, có thể phát triển lớn mạnh; và nếu ở đấy người ta tiếp nhận luật Chúa, thì việc đó sẽ giúp cho Nhật Bản mất đi lòng tin cậy vào những giáo thuyết tôn giáo mà Nhật bản đang tin”. Cũng vào lúc nầy, Ngài viết thư cho Inhaxiô de Loyola như sau: ” Nếu người Nhật biết rằng người Trung Hoa nghe theo luật Thiên Chúa, thì chắc chắn họ sẽ mất niềm tin vào những điều họ vẫn giữ trong các giáo thuyết của họ”. (Epistolae S. Francisci Xaverii aliaque eius scripa [...], Georg SCHURHAMMER et Joseph WICKI ed., t. II (1549-1552), Roma, Monumenta historica Societatis Jesu, 1945: tr. 227 và tr. 291-292).

  Gần ba mươi năm sau, mặc dù gặp phải những thất bại và ngỡ ngàng ở Trung Hoa, quan điểm nầy vẫn xem là có giá trị. Thí dụ như trong bức thư của tu sĩ dòng Phanxicô Pedro de Álfaro gởi cho bạn cùng dòng là Agustín de Tordesillas, viết từ Macao ngày 20.11.1579, vị nầy viết: “[Cha Coutinho, bề trên các cha dòng Tên của Macao] có nói rằng Đông dương không truyền giáo được ngay bây giờ và cũng không quan trọng như chúng ta tưởng [...]. Ngài nhân danh Chúa mà đưa ra ý kiến đó, cũng như ý kiến của Đức Cha [Belchior Carnerio, Giám quản của địa phận Macao], người từng rất muốn làm cho người ta trở lại, đó là trước hết phải tìm cách giảng đạo cho Đại Vương quốc (Trung Hoa) rồi sau đó mọi sự sẽ dễ dàng...” (Sinica Franciscana, tập 2: Relationes et epistolas Fratrum Minorum sỉculi XVI et XVII, Anastasius VAN DEN WYNGAERT ed., Quaracchi-Florence, Collegium S. Bonaventurỉ,  1933, tr. 52 chú thích 1). Quan điểm của Valignano có điểm khác, như hệ đến Việt Nam. Theo Ngài, mọi nỗ lực truyền giáo của các cha dòng Tên phải tập chú vào Nhật Bản, ở đây đang thu hái nhiều thành quả to lớn. Gửi người đi chỗ khác sẽ mất thì giờ và phân tán sức lực một cách đáng tiếc: ” Hội dòng phải nỗ lực hết sức mình để chu toàn công việc truyền giáo ở đây, dẫu phải bỏ qua các vùng truyền giáo khác.” (Sumario de las cosas que pertenecen a la Provincia de Jappón y al govierno della, chương 6; xem phần dịch pháp ngữ của J. Bésineau, Les Jésuites au Japon: relation missionnaire [1583], [Paris], Desclée De Brouwer [1990], tr.113). Khi Nhật bản gặp phải các cuộc bắt bớ, thì nơi thay thế duy nhất mà công cuộc truyền giáo Hội dòng nhắm đến đó là Trung Hoa, và ngài gửi Ruggieri và Ricci đến đây. Trong ý ngài, các dòng khác tự do đi các vùng đất mà các cha dòng Tên không có mặt (tlđd. chương 9, tr. 133). Nhưng các tu sĩ  dòng Augustinô, Đaminh và Phanxicô lại cũng thích chọn Trung Hoa và Nhật bản...

20.  Thư đề ngày 29.11.1555 viết từ Malacca, gửi đến viện trưởng Collège St. Paul ở Goa: bản dịch pháp ngữ của Pierre-Yves MANGUIN, Les Portugais sur les côtes du Viêt-Nam et du Campa (trích chú thích 17), tr.48-49. Từ ngữ "padrão" tiếng Bồ đào nha có nghĩa là một bia đá mang huy hiệu của Bồ đào nha, đánh dấu việc chiếm hữu một cách tượng trưng nhân danh triều đình Bồ đào nha. Việc chọn lựa đặt padrão trên đảo Cù lao Chàm thay vì ở trên đất liền có thể để nhấn mạnh đến khía cạnh thuần tượng trưng của sự việc. Năm 1524, người Bồ đào nha đã đau đớn ý thức rằng không có vấn đề nhường lại quyền lãnh chúa thực sự của mình cho bất kỳ ai trong vùng biển Trung Hoa, ngược lại việc họ đã làm trong vùng Ấn độ dương đến Malacca. Xem Henri CORDIER, "Người Bồ đào nha đến Trung Hoa", trong T’ oung Pao, 12, 1911, tr. 485-543; cũng như trong phần dẫn nhập của Charles Ralph BOXER (ed.) nơi cuốn South China in the 16th century. Being the narratives of Galeote Pereia, Fr. Ga Martin de Rada, 1550-1575, Londres, Hakluyt Society, 1953; Nendeln/Liechtenstein, Kraus Reprints, 1967.

21. Xem Khâm Định Việt sử thông giám cương mục (viết vào năm 1859 dưới sự hướng dẫn của Phan Thanh Giản, xb. năm 1884): phần chính biên, cuốn 33, bản khắc 6b; chính bản bằng hán văn in lại trong Bulletin de la Société des études Indochinoises [BSEI], phụ bản cuốn 45/2-3, tr. 10; bản dịch pháp ngữ có chú thích của Philippe LANGLET trong BSEI, bộ 45/2-3, tr.102. Bản văn nói đến một người ngoại quốc (dương nhân), đã âm thầm đi vào các vùng của lưu vực Sông Hồng. Sự kiện nầy được ghi ở phần chú thích, dựa vào dã lịch, nhưng không nói đến tài liệu nào rõ ràng cả. Vì quốc tịch không nói rõ, nhưng dường như đây hẵn là một người Bồ đào nha.

22.  Gaspar da Cruz, gốc người Bồ đào nha, là vị truyền giáo dòng Đa minh đầu tiên tại Viễn đông. Xem cuốn sách của ông: Tractado em que se cõtam muito por extẽso as cousas da China, cõ suas particularidades, & assi do reyno dormuz. Cõpuesto por el R. padre frey Gaspar da Cruz da ordẽ de sam Domingos [...]    (Évora, André de Burgos, 1569): tr. 162 trong bản dịch của Charles Ralph BOXER, South China in the 16th century. Being the narratives of Galeote Pereia, Fr. Gaspar da Cruz, Fr. Martin de Rada, 1550-1575, Londres, Hakluyt Society, 1953. Xác quyết của một vài sử gia về các công cuộc truyền giáo liên quan đến một hoạt động truyền giáo của G. da Cruz tại Việt Nam không có căn cứ.

23.  Xem "Relación inédita de Fray Diego de San José sobre la misión franciscana a Cochinchina y su paso por China (1583)" trong Archivo Ibero-Americano [Madrid] 53, 1993, tr. 459-487; cũng như phần dẫn nhập của J. Ignacio TELLCHEA IDIGORAS: "Expedición franciscana a Cochinchina y China", ibid., tr. 449- 458.

24.  Xem Marcelo DE RIBADENEYRA, Historia de las Islas del Archipielago, y reinos de la Gran China, Tartaria, Cochinchina, Malaca, Sian, Camboxa y Iappon, y de lo succedido en ellas a los religiosos Descalzos, de la Orden del Seraphico Padre San Francisco, de la Prouincia de San Gregorio de las Philippinas [...], Barcelone, Grabriel Graells y Giraldo Dotil, 1601: chương 16. Theo bản văn xuất bản có phần phê bình của Juan R. DE LEGíSMA, Madrid, Editorial Católica, 1947, với các chú thích và thư mục đầy đủ được trích dẫn.

25.  Xem "Relação de  como os Religiosos do Serafico São Francisco Capuchos que forão para o Reyno de Cochin- china com tensão de pregar nelle o Santo Evangelho; e do que lhes succedeo estando là, e de como se vieram" : Lisbonne, Biblioteca Nacional, codex 11098, fol.347-349. Vua Philippe II, từ năm 1580 trị vì hai xứ Tây ban nha và Bồ đào nha, đã từng yêu cầu người Tây ban nha nhường chỗ cho người Bồ đào nha trên lục địa Á châu.

26.  Xem "Relação de como os Religiozos do glorioz Dor S. Agosto forã ao Reyno da Cochinchina cõ tensã de lá pregarẽ o Sto Evango ; e de como, e por que vierã de là" Lisbonne, Arquivo Histórico Ultramarino: codex 1659, fol. 275-276v. Cũng xem Teófilo APARICIO LÓPEZ, La Orden de San Agustin en la India (1572-1622), Lisbonne, Centro de Estudos Históricos Ultramarimos, không đề niên kỷ [bản xb trích lại của Studia 40, 6.1974 - 12.1978], tr. 322-327.

27.  Xem l’Itinerário de Sebastião Manrique (1639), Luis DA SILVEIRA xb. Lisonne, 1946, chương 45: ” Vì có nhiều cuộc di dân trong vương quốc nầy, và vì Dòng của tôi không thể nào đương đầu được với những nhu cầu của công cuộc truyền giáo nầy bởi lẽ cần dự trù nhiều tốn kém- [Dòng] thực sự có rất ít của cải trong các vùng đó- nên không duy trì được [các công cuộc truyền giáo ấy) và cũng sẽ không thực hiện được trừ trường hợp phải chi dụng rất nhiều; và đấy cũng là kinh nghiệm của các linh mục dòng Tên trước đây: Nếu cứ phải liên tục lo tặng quà và lễ vật khác nữa, không những cho vua và các ông hoàng, mà còn cho các vị quan cao cấp; thì e cũng cần phải cứ tiếp tục như đã từng làm trong nhiều trường hợp...)

28.  Có nhiều nghiên cứu đã phổ biến về đề tài nầy, trong đó có Joseph JENNES, A history of the Catholic Church in Japan from ist beginnings to the early Meiji Era. A short handbook, tái bản,Tokyo, Oriens Institute for Religious Research, 1973; Kiichi MATSUDA. The Relations between Portugal and Japan, Lisbonne, Centro de Estudos Históricos Ultramarimos, 1965; Charles Ralph BOXER, The Christian century in Jpan 1549-1560, Londres, Cambridge University Press/ Berkeley, University of California Press, 1951; tái bản. : [Londres], Carcanet, 1993. Tiếng Pháp có: Léon PAGES, Histoire de la religion chrétienne au Japon depuis 1598 jusqu’à 1651, 2 tập, Paris 1869-1870.

29. Các nhà truyền giáo cũng dùng thành ngữ: “Đàng Trong” và “Đàng Ngoài”. Nhưng chúng tôi sẽ dùng lối nói mà người Bồ đào nha dùng. Sau nầy chính quyền thực dân Pháp chia Việt Nam làm ba miền Bắc phần (Tonkin), Trung phần (Annam) và Nam phần (Cochinchine). Ở đây chúng ta không nhắc đến lối phân chia đó.

30. Cần lưu ý là bên kia eo biển Malacca (tức là vùng Thái bình dương), người Bồ đào nha không thực hiện, cũng như không từng chủ trương chiếm đất. Trong trường hợp ta nêu lên ở đây, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) đã mời họ đến lưu ngự tại cửa sông Hàn, tức thành phố Đà Nẵng sau nầy. Nhưng, các tác giả của các dự án nầy có hai mẫu mực định cư khác nhau trong đầu họ:

     - Phía người Việt Nam, người ta chủ trương lấy mẫu Hoài Phố - Hội An. Đây là hai mẫu định cư vào thời đó của một nhóm người Nhật bản và một nhóm người Trung hoa. Mỗi cộng đồng tự tổ chức cuộc sống, theo tập quán và luật lệ riêng của mình. “Người thủ lãnh” có quyền trên cộng đồng những người đồng hương của mình, nhưng luôn thuộc quyền của quan địa phương (quan Việt Nam). Các cộng đồng định cư nầy buôn bán, trả thuế (cao) cho chính quyền Việt Nam. Hệ thống đó hợp với mọi người. Do vậy mà chúa (Nguyễn) tìm cách định cư một cộng đồng người Bồ đào nha tại chỗ nầy theo cùng mẫu tổ chức như thế. Việc làm đó còn cho phép chúa Nguyễn hy vọng được người Bồ đào nha giúp phòng thủ, đặc biệt để đối đầu với Đàng Ngoài, kể cả với người Tây ban nha, Hòa lan...

      - Phía người Bồ đào nha thì có mẫu của Macao. Nhiều sử gia không hiểu về thực trạng của Macao vào các thế kỷ 16 và 17; gần đây người ta đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về thực trạng nầy, kể cả trong giới các sử gia Trung hoa. Mọi người đều chân nhận rằng bấy giờ Macao là vùng đất của Trung hoa chứ không phải của Bồ đào nha, và người Bồ đào nha phải trả tiền rất nhiều để thuê lại đất nầy, chưa kể tiền thuế cập bến và quan thuế. Mọi sinh hoạt của người Bồ đào nha đều đặt dưới quyền giám sát của một vị quan đặc biệt gửi đến Macao, do các giới chức của Quảng đông. Vương quốc Bồ đào nha chỉ có những đại diện như sau:

       a/ từ 1557 một “thủ lãnh đặc trách đi lại nước Nhật bản”, vị nầy có thẩm quyền, trong chỉ một năm, trên các cuộc đi lại bằng đường biển, chứ không có quyền trên dân chúng;

        b/ từ 1576 giám mục (hoặc thường là một giám quản) có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến sinh hoạt giáo hội;

        c/ và từ 1580 một thẩm phán hoà giải, có thẩm quyền tài phán đối với người Bồ đào nha mà thôi.

      Vào năm 1583, quyền hành địa phương của cộng đồng người Bồ đào nha (l’ oligarchie portugaise) đã có “nghị viện”, với thẩm quyền trên các vấn đề dân sự của người Bồ đào nha. Nhưng các quan lại Trung hoa luôn canh chừng nhằm tránh tình trạng lấn quyền (chẳng hạn người Bồ đào nha có khuynh hướng đặt người Kitô hữu Trung hoa dưới khuôn khổ các luật lệ riêng của mình). Ở đây cũng như ở Hội An, hệ thống tổ chức như thế có lợi cho mọi người, vì người Bồ đào nha giàu có nhanh nhờ buôn bán với Nhật bản mà không phải trả thuế cho triều đình của nước mình. Macao chỉ có vị thống đốc (quân sự), với một đội quân ít ỏi, kể từ năm 1623, do cuộc tấn công của người Hòa lan năm 1622, mà dân cư tại đây đã đẩy lui một cách vất vả - Nhưng vào thời kỳ chúng ta nêu lên đây, khía cạnh đó chưa hề được lưu ý. Mãi đến thế kỷ 19 thì Bồ đào nha mới đơn phương tuyên bố Macao “là vùng đất của người Bồ đào nha".   

Vào thời kỳ chúng ta đang nói ở đây, việc giao thương buôn bán có lợi giữa Macao và Nhật bản trở thành khó khăn, do quyết định dần dần bế quan tỏa cảng của Nhật đối với người Bồ đào nha. Một số người cho rằng Việt Nam có thể thay cho vai trò Nhật bản trong việc giao thương. Nhưng trường hợp nầy lại cho thấy Macao không thuận lợi lắm về mặt địa lý. Do đó, mà các dự án di cư - định cư của người Bồ đào nha tại Việt Nam phát sinh; người ta mong rằng chúa Nguyễn sẽ tạo những điều kiện thuận lợi hơn quan chức Trung hoa.

31.  Xem thư của nhà vua gửi phó vương Jerónimo de Azevedo ngày 6 tháng 2 năm 1616: Lisbonne, Archives Nationales-Torre do Tombo, Livros das Monơões số 9, fol. 40, doc. 636; xb. trong Raymundo Antonio DE BULHãO PATO (dir), Documentos remettidos da India ou Livros das Monơões, tập III, Lisbonne, Academia Real das Sciencias, 1888, tr. 381-382 - Thư của phó vương Jerónimo de Azevedo gửi nhà vua tháng 3 năm 1617: Goa, Archives Nationales, Registo das cartas de D. Jerónimo de Azevedo số 17, fol. 261v, bản văn trong Boletim da Filmoteca Ultramarina Portuguesa [= BFUP] 4, 1954, trang 826 và 7, 1956, tr. 823 ốThư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho ngày 23 tháng 1 năm 1618: Lisbonne, Archives Nationales, Livros das Monơões số 11, fol. 183, doc 991, xb trong R.A.DE BULHãO PatO, sách và tập đã dẫn trang 351 ốThư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho ngày 23 tháng 1 năm 1618: Lisbonne, Archives Nationales, Livros das Monções  số 11, fol. 53, doc. 943, xb. Academia Real das Sciencias, 1893, trang 280 ốThư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho ngày 5 tháng 3 năm 1620: Lisbonne, Archives Nationales, , Livros das Monções số 13, fol. 271: xb do P.-Y. MANGUIN, Le Portugais sur les côtes du Viêt nam (xem chú thích 17) trang 308.

32.  Các thư của phó vương João Coutinho gửi nhà vua ngày 7 tháng 2 năm 1619 và ngày 8 tháng 2 năm 1619: Lisbonne, Archives Nationales, Livro dasMonções số 11, fol. 54, doc.944 và fol. 184,doc 992; xb trong R.A. DE BULHÃO PATO, sd. tập IV, trang 281 và 382.

     Còn về thái độ của phó vương Francisco da Gama, xem Manuel TEIXEIRA, A diocese portuguesa de Malaca (Macau e a sua diocese, tập 4) Macau xb do Boletim Eclesiástico, 1957, tr. 242.

33.  Pierre- Yves MANGUIN, Les Portugais sur les côtes du Viêt-Nam et du Campa (xem chú thích 17)

34.  George Bryan SOUZA, The Survival of Empire, Portuguese Trade and Society in China and the South China Sea, 1630-1754, Cambridge (Grande-Bretagna), 1986.

35.  Nên xem Manuel TEIXEIA, Relações comerciais de Macau com o Viêtnam (Macau e a sua diocese, quyển 15), Macao, Imprensa Nacional, 1977; và các quyển khác trong bộ Macau e a sua diocese (16 quyển, Macao, một số nhà xb. 1940-1979).

36.  Về địa phận Malacca (thành lập năm 1558), xem thư của Francisco Vieira à Mutio Vitelleschi, viết từ Macao ngày 26.11.1616: Roma, Tài liệu lưu trữ của dòng Tên- "ÏARSI", bộ tập JAP-SIN, quyển 17, trang 21-22 và 22-28; ngoài ra xem các bản báo cáo dịp viếng ad limina của địa phận Malaca năm 1624: Roma, Archivio Segreto Vaticano, kho tài liệu S.C. Concilio - Visite ad limina, hộp 481, không dẫn chiếu.

Về địa phận Macao (thành lập năm 1576), xem bản gốc bức thư của phó vương Jerónimo de Azevedo gởi nhà vua (1616-1617?): Goa, Thư khố quốc gia, Registo das cartas de D. Jerónimo de Azevedo số 12, trang 28-29; bản văn trong BFUP 4, 1955, trang 724, dẫn chiếu 7, 1956, trang 859.

37.  Xem thư của João Rodrigues Giram gửi Nuno Mascarenhas, từ Macao 26.2.1615: ARSI, JAP-SIN , quyển 18-II, trang 169-171 và 172-173; thư của Valentim de Carvalho gửi Nuno Mascarenhas, từ Macao 9.2.1615: tlđd, trang 174- 175; v.v... Cũng xem Nicolao DA COSTA " Annua do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616”, đề ngày 17.1.1616 từ Macao: ARSI, JAP-SIN. quyển 114, trang 1-9 (trang 4v-5).

38.  Xem Giuliano BALDINOTTI, “Viagem de Tunkim” và ” Breve relação” (1626): Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/31, trang 15-24. ố Pêro MARQUES "Annua de Tunkim aũo 1627” đề ngày 25.7. 1627: ARSI, JAP-SIN quyển 88, trang 11-18v . -- Vô danh “Missam que se fes do Collegio de Macao ao Reino de Tonquim cabeça da Cochỹchina no anno de 1627” tlđd. quyển 72, trang 88-127. ố Alexandre DE RHODES ” Initium missionis Tunquinensis anno 1627”, Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/31, trang 24- 26 v và quyển 49/V/6, trang 443 v  446 v . Thư của João Rodrigues Girão gửi Antonio Freir, từ Macao 25.11.1627: Lisbonne, Biblioteca Nacional, Manuscritos, hộp 30, số 210.

39.  Từ năm 1580, các vua Tây ban nha đồng thời cũng là vua xứ Bồ đào nha. Năm 1640, Bồ đào nha lật đổ vương quyền Tây ban nha và đưa một dòng họ thật sự Bồ đào nha lên ngôi: Quận công Bragance. Nhưng trong 30 năm ấy, tòa thánh xem nhà vua mới nầy là bất hợp pháp và hỗ trợ những đòi hỏi của vua Tây ban nha. Xem phần dưới.

40.  Về sự kiện và hậu quả của khủng hoảng giữa Bồ đào nha phục hưng và Tòa thánh cũng như việc thiết lập các đại diện tông tòa cho Việt Nam, xem Henri CHAPOULIE, Roma et les Missions d’ Indochine au XVIIe siècle, tập I, Clergé portugais et évêques français dans les royaumes d’ Annam et de Siam, Paris, Bloud et Gay, 1943; tập II, La constance romaine et l’établissement définitif des vicaires apostoliques dans les royaumes d’Annam et de Siam, Paris, Bloud et Gay, 1948; và António DA SILVA REGO, Lições de Missionologia, Lisbonne, Junta de Investigações do Ultramar, Centro de Estudos Politicos e Sociais, 1961(xem chương: “Desentendimento entre o Padroado e a Propaganda na Cochinchina, no Tonquim e Sião, 1658-1696”, tr. 173-179).

41.  Xem các danh sách và thư mục do Manuel TEIXEIRA xb. trong tác phẩm của ông As Missões Portuguesas no Vietnam [Macau e a sua diocese quyển 14, Macao, Imprensa Nacional, 1977] tr. 279-491; và trong Josef Franz SCHÜTTE (xb). Textus Catalogorum aliặque de personis domibusque S.J. in Japonia informationes et relationes 1549-1654 (Monumenta Historica Iaponiặ I), Roma, Institutum Historicum Societatis Iesu, 1975, tr.611-1120.

42.  Người đương thời còn nói đến 300.000 Kitô hữu: xem phúc trình của Alexandre de Rhodes gửi Propaganda Fide: Rome, văn khố của Propaganda Fide, tập tài liệu SOCG, quyển 193, trang 462. Nhưng con số đó còn tranh cãi, những lượng định ngày nay ghi nhận độ 200.000.

43.  Chẳng hạn, xem các liệt kê viết tay của các cộng đoàn ở Đàng Ngoài trong các văn khố dòng Tên tại Macao: Lisbone, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/31, trang 44-46 (vào khoảng năm 1640); tlđd quyển 49/ V/33, trang 146-148v (1676) và 379-382 (1678)...

44.  Xem Gaspar DO AMARAL: ” Relaçã dos catequistas da Christandade de Tumquim e seu modo de proçeder pera o Pe Manoel diaz Vizitador de Jappã e China” (1638): ARSI, JAP-SIN. 88, tr. 348-354v; cũng xem Madrid, Real Academía de la Histora, Archivo de Japón, leg.21 bis, fasc. 16, trang 31-37; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/31, trang 383-407. Ngoài ra còn xem: Gio[vanni] Filippo DE MARINI, Delle missioni de’ Padri della Compagnia di Giesv nella Prouincia del Giappone, e particolarmente di quella di Tumkino, Roma, Nicoló Angelo Tinassi, 1663, trang 183-188.

45.  Xem Processo informatorio điều tra phong thánh cho Anrê, thực hiện tại Macao từ tháng 12/1644 đến tháng 2 / 1645, và được chính quyền thị xã Macao chứng thực: Roma, Archivio Segreto Vaticano, kho Riti, số 479. Bản tường trình viết tay của Alexandre DE RHODES: "Rellação do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchina, alanceado, e degolado em Cachão aos 26 de Julho de 1644, tendo de idade dezanove annos" : ARSI, JAP./SIN. 71 tr. 261-265. Xem "Relação da morte do catequista André, proto-mártir da Cochinchina" [bản văn của Alexandre de Rhodes, dịch lại tiếp ý do Miguel SERRAS PEREIRA, trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau 76, 1978, trang 237-262]. Cũng xem Manuel TEIXEIRA, "André, de Phu Yen, o primeiro mártir do Vietnão", trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau, 57, 1959, trang 788-793; id. "Andrew, the proto-martyr of Vietnam”, trong A precious treasure in Coloane: The relics of Japanese and Vie Macao, Department of Tourism, 1982, tr. 19-27. Bản tường trình viết tay bằng tiếng Bồ đào nha được phỏng lại trong pháp ngữ: La glorievse mort d’ André Catechiste de la Cochinchine, qui a le premier versé son sang pour la querelle de Iesvs-Christ, en cette nouuelle Eglise. Par le P. Alexandre de Rhodes de la Compagnie de Jesus qui a toujours esté present à toute cette Histoire, Paris, Sébastien Cramoisy, 1653.

 Cũng cần ghi nhận là thầy giảng Anrê không có trong danh sách 117 vi thánh tử đạo Việt Nam được phong vào năm 1988, và cũng không thấy có vị truyền giáo Bồ đào nha hoặc bổn đạo nào của họ trong danh sách nầy. Việc xin phong thánh cho Anrê, đề nghị lên toà thánh từ năm 1649, nay còn đang cứu xét: việc chậm trể khó hiểu nầy dường như do việc thất sủng của các tu sĩ dòng Tên từ sau năm 1659, và sau đó còn do việc tranh cãi về những lễ chế suốt mấy thế kỷ, chứ không phải vì chính công đức của người thanh niên gan dạ nầy.

46.  Chẳng hạn xem nhận định của tu sĩ dòng Tên Joseph Tissanier trong các thư gửi cho Goswin Nickel, 29.10.1659, và cho Pierre Le Carré, 20.11.1660: ARSI, JAP.-SIN. 80, trang 149-149v và 151-151v.

47.  Ngoài các tài liệu khác, nên xem Francisco FARIA PAULINO, Maria Leonor CARVALHÃOBUESCU et alii (dir.), A galáxia das línguas na época da Expansão, [Lisbonne], Comissão Nacional para as Comemorações dos Descobrimentos Portugueses, 1992: tr. 54-60, với thư mục trích dẫn; và Ana Paula LABORINHO, “A questão da língua na estratégia da Evangelização” trong Macau, 31, 1994, tr. 66-72. Những đại tác phẩm liên quan đến tiếng Nhật có vào khoảng giữa thế kỷ 16 và 17: Dictionnarium Latino- Lusitanum ac Japonicum ex Ambrosii Calepini volumine depromptum, Amacusa, 1595, xem bản chụp lại, Tokyo, 1953 và 1979; Vocabulario da Lingoa de Japam com a declaraçã em Portuguez, Nangasaqui, 1603. Hai bộ văn phạm Nhật bản của João Rodrigues (Arte da lingoa de Iapam và Arte breve da lingoa Iapoa) đã được in tại Nhật bản, tuần tự giữa các năm 1604 và 1608, và vào các năm 1620.

48.  Chẳng hạn xem lời tựa không đề tên của tác phẩm tập thể do Hoàng Văn Hành điều khiển, Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng. Dictionary of Sino-Vietnamese everyday usage elements, Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991, trang 5-9. Cũng xem Nguyễn Thị Chân Quỳnh: “Concours de mandarins” (xem chú thích 3). Chúng tôi không nói đến trường hợp tiếng Đại hàn, vì tiếng nầy không được người Âu châu nghiên cứu trong thời gian liên hệ.

49.  Francisco de Pina, sinh tại Guarda năm 1585, vào dòng Tên năm 1605. Ông học ở Macao từ năm 1613 đến khoảng năm 1616, đặc biệt rành tiếng Nhật. Chịu chức linh mục ở Malacca năm 1616, và cuối năm 1617 đi truyền giáo ở Đàng Trong; chết vì tai nạn tại đây ngày 15.12.1625. Do sự sai lầm của Fortuné-M. DE MONTézon và édouard ESTEVE trong Mission da la Cochinchine et du Tonkin (Paris, Charles Douniol, 1858, tr. 386), một số tác giả nầy tiếp tục cho rằng Pina là người Ý. Nhưng tài liệu ghi trong các bản cũ đã nói rỏ: xem Josef Franz SCHÜTTE  (éd.), Textus Catalogorum (chú thích 38) trang 855, 955 và passim.

50.  Xem những chỉ dẫn thư mục nêu lên dưới tên “João Rodrigues” bởi Joseph DEHERGNE, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma, Institutum Historicum S.I., và Paris, Letouzey et Ané, 1973. Về con người và tài năng của ông, xem Michael COOPER, Rodrigues the Interpreter. An Early Jesuit in Japan and China, New York / Tokyo, Weatherhill, 1974.

51.  “Tiene questo huomo un figlio di sedici aũi il più uiuo et habile di quel loco, et il migliore scrittore nella Irã Cinese, cosa che tra di loro è di molta stima. [...] Questo giouane che battizato si chiama Pietro, con le sue Irẽ fà di grande agiuto al prẽ, per tradurre nella lingua della terra il Pater noster, Ave Maria, Credo, et Decalogo; che li Xpĩani già haũo imparato à mente. Compose anche il prẽ nella lingua gl’ articoli della fede, ne quali bastantemte si declara hauer un Dio solo, li misterij della Ssma Trinità, e dell’ Incarnatne e Redentione, e la necessità che habbiamo di participare i meriti di Chrõ nrõ Sigre per mezzo della fede, e santi sacramenti. Li Xpĩani uaũo tutto scriuendo, e gia cominciano à dire la corona à nrõ modo...” Bản báo cáo ký tên Francisco EUGENIO, tu sĩ dòng Tên người Ý ở Macao, ghi lại những chỉ dẫn lấy từ một tài liệu khác: ” Annua del Collegio di Macã del 1618” (ARSI, JAP.-SIN. 114, trang 176-185). Bản 183v-184.

52.  Câu văn trích ở trang 183v.

53.  Những tài liệu nầy trích từ một bức thư mà chúng tôi nghĩ là nay chỉ còn một bản ở Văn khố dòng Tên tại Macao, và chúng tôi giữ nguyên văn và phần bình chú: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, quyển 49/V/7, trang 413-416. Thư không đề ngày và không ký tên; người chép lại (José Montanha hoặc Manuel Álvares, vào khoảng năm 1755) chú rằng có thể do chính tay của Pina viết, và cho niên kỷ vào khoảng năm 1622-1623. Chúng tôi có thể chứng minh chắc chắn tác giả là Pina và niên kỷ (những tháng đầu 1623) có thể là xác thực hơn cả: xem Roland Jacques, L’ỉuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en 1650: luận văn D.E.A. trình tại Paris. INALGO, 1995 (đang in).

54.  Daniello BARTOLI, Dell’ Historia della Compagnia di Giesu. La Cina. Terza parte dell’ Asia, Roma, Stamperia del Varese, 1663, tr. 618.

55.  “Era il P.Pina di nation Portoghese, in età di quaranta anni, caro anche a gl’ idolatri, percioche ne parlaua la lingua quanto Cocincinese natiuo” (La Cina, tr. 834).

56.  Xem thư của Fernandes gửi Nuno Mascarenhas, đề ngày 2.7.1625 tại Phe-phô: ARSI. JAP-SIN. 68, trang 11-12: ”... Một nhà (dòng) đã được tổ chức tại Cachão, thủ phủ của chúa (Nguyễn); cho đến nay, nhà đó không thuộc về số các nhà của Hội Dòng, mặc dầu có một cha luôn cư ngụ đó với một người bạn dòng. Bây giờ, cha Francisco de Pina ở đấy và dạy tiếng nói cho các cha Alexandre Rhodes và António de Fontes”.

57.  António de Fontes, sinh năm 1569 ở Lisbonne, nhập dòng năm 1584; ngài từng làm giáo sư tại Coimbra và Braga, trước khi đi tàu đến Phương Đông năm 1617; ngài được ủy thác nhiệm vụ truyền giáo tại Đàng Trong từ 1624 đến 1631, rồi tại Đàng Ngoài và cư ngụ ở đấy nhiều lần cho đến năm 1648.

58.  Xem Gaspar LUIS, “Cocincinicỉ  missionis annuae litterỉ  anni 1625”, ARSI, JAP.-SIN. 72 (trang 50-67). trang 59-59v; và bài tường thuật không đề tác giả " Relaçã de huã perseguiçã da Christandade de Cochinchina” (1626): tlđd., JAP.-SIN. 68, trang 39-40 và 41-42.

59.  Công trình nghiên cứu giá trị nhất hiện nay về đề tài nầy hẳn là tác phẩm của linh mục dòng Tên Việt Nam Joseph Đỗ Quang Chính: Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Saigon, 1972; tái bản Pairs., Đường Mới, 1985. Tuy nhiên tác giả gặp trở ngại vì không sành tiếng Bồ đào nha. Công trình nghiên cứu cần được bắt đầu lại và bổ túc với toàn bộ tài liệu viết tay còn lưu. Về buổi đầu văn chương kitô giáo, xem Georg SCHURHAMMER, “Annamitische Xaveriusliteratur” (Văn chương Việt Nam liên quan đến Phanxicô Xavie), trong Johannes Rommerskirchen và Nikolaus koWalski (ed.), Missionswissenschaftliche Studien, Festgabe Pr.Dr. Johannes Dindinger [...] (Các công trình nghiên cứu khoa học truyền giáo, ca ngợi gs. J.D.), Aix-la-Chapelle, Wilhelm Metz, [1951], tr.300-314; Võ Long Tê, Dẫn-nhập nghiên-cứu tiếng Việt và chữ Quốc-ngữ [Reichstett (Pháp) - Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ / Định Hướng Tùng Thư, 1997, và NGuyễn Văn Trung (dir.). Về Sách báo của Tác g Văn chương đại học TP HCM., 1993, đặc biệt là những đóng góp của THANH Lãng và Võ Long Tê.

60.  Về vấn đề tham gia của các kitô hữu Việt Nam và các công trình sáng chế ngữ học thế kỷ 17, xem Hoàng Tuệ “Về việc sáng chế chữ quốc ngữ” trong 90 ans de recherches sur la culture et l’ histoire du Viêt-nam, Hà nội, EFEO, 1995, tr.456-460; và Nguyễn Đình Đầu “Alexandre de Rhodes và chữ Quốc ngữ” [trong Tuyển Tập Thần Học], 8/1993, tr. 47-84.

61.  Trong tác phẩm của ông Divers voyages et missions (xem chú thích 9), Rhodes cho ta khá nhiều yếu tố về cuộc đời ông. Để nói rõ về nỗ lực riêng của ông trong công trình ngữ học, chúng tôi sẽ xuất bản một bản viết tay của ông, viết vào năm 1632 và chưa từng được phổ biến; trong tài liệu nầy, vào thời gian ấy ta sẽ thấy rõ thực trạng và những thiếu sót của ông về các kiến thức liên quan đến cách phát âm tiếng Việt.

62.  Alexandre de Rhodes, Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum, “Ad Lectorem”, bản văn ở đầu sách, không đề trang.

63.  Gaspar do Amaral (hoặc de Amaral), sinh năm 1594 tại Curvaceira (nay là freguesia de Chão de Tavares gần Mangualde, huyện lỵ của Viseu), nhập hội dòng Tên năm 1607. Trước hết làm giáo sư ở Braga, Coimbra và É vora, rồi đi Phương Đông năm 1623. Ông được gửi đến truyền giáo ở Đàng Ngoài năm 1629 và 1638, và cư ngụ tất cả là bảy năm trong hai kỳ khác nhau. Sau đó, tại Macao, ông giữ chức vụ viện trưởng, phó tỉnh dòng, rồi làm kinh lược các vùng truyền giáo. Ông chết vào tháng 2 năm 1646, trên các bờ biển đảo Hải Nam trong một tai nạn đắm tàu chở ngài đến Đàng Ngoài. Vào thời ngài mất, ngài xem là người  có khả năng nhất trong Hội dòng Tên về tiếng Việt.

64.  António Barbosa, sinh năm 1594 ở Arrifana do Sousa (nay là Penafiel phía đông của Porto), nhập hội dòng Tên tại Lisbonne năm 1624 và sau đó không lâu đi Phương đông. Năm 1629, ông được gửi đến truyền giáo tại Đàng Trong, và vào năm 1636 thì đến Đàng Ngoài. Năm 1642, vì bịnh, ông bắt buộc phải trở về lại Macao, rồi Goa và chết tại đấy năm 1647.

65.  Xem J. F. SCHÜTTE, Textus Catalogorum (xem chú thích 41), tr. 1034-1050. Xem các tài liệu: ARSI, JAP.-SIN. 80, trang 35-38v và 73-81; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, 49/V/13, trang 351- 373 và 661-663; 49/ V/32, tr. 308-327v.

66.  Baltazar Caldeira, sinh ở Macao năm 1608, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1639; năm 1646 được gửi vào Đàng Trong, nhưng cùng năm đó bị trục xuất; ngài chết ở Goa năm 1674. Manuel Pacheco, sinh ở Cantanhede Bồ đào nha, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1641 đến 1642; phần chính của sự nghiệp ngài là làm giáo sư tại phân khoa nghệ thuật ở học viện Macao (Faculté des Arts du Collège de Macao), trong đó có dạy các ngôn ngữ; ngài chết tại đây năm 1647. Pêro Alberto, sinh ở Bragance (?) truyền giáo ở Đàng Trong vào 1640-1641, và sau đó từ 1641 ở Đàng Ngoài; ngài chết trên chuyến tàu về Macao, tàu bị chìm năm 1646, cùng với Gaspar do Amaral. Metello Saccano, sinh ở Messine, đã từng rời Lisbonne để đi Phương đông năm 1643, truyền giáo ở Đàng Trong giữa các năm 1646 và 1655, và sau đó còn trở lại vào năm 1662; một vài tháng sau ngài chết ở đây.

67.  Xem các tài liệu: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, 49/V/32, tr. 521-522v và 681-681v; 49/V/61, tr. 231v-252v và 362v-377.

68.  ARSI. JAP.-SIN, 80, tr. 88-89v và 96-96v.

69.  Daniello BARTOLI, Dell’ Historia della Compagnia di Giesu. La Cina. Terza parte dell’ Asia, Roma, Stamperia del Varese,1663; xem bản viết tay (365 trang), còn lưu giữ tại Roma, trong văn khố của dòng Tên; nhiều lần được tái bản, trong đó: La Cina: Storia della Compagnia di Gesù, Milan, Bompiani, 1975.

70.  ARSI, Fondo Gesuitico 688, tr.153 (kiểm định ký tên Antonio Casilio) và 158 (kiểm định ký tên V.M.= Vasco Martin?).

71.  ARSI. Lus. 37-II, tr. 379-385. So sánh một trong những thư của Joseph Tissanier đề ngày 15.11.1658, 29.10.1659, 12.11.1659: ARSI, JAP.-SIN. 80, tr. 120-121 và 149-152.

72.  Xem chiếu dụ của Giáo hoàng Alexandro VII "Super Cathedram Pricipis Apostolorum” ngày 9.9.1659, trong Bullarium Patronatus Portugalliặ Regum, tập II (Visconde DE PAIVA MANSO ed., Lisbonne, 1870), tr. 95. Những phái viên đầu tiên của các Đại diện tông tòa đến Việt Nam và các năm 1664 và 1666.

73.  Một trong các tài liệu có nhan đề: Breve ragguaglio di ció, che é accaduto nelle Indie Orientali fra i Vicari Apostolici, ed i missionari della Compagnia di Giesù dall’ anno 1662 fino al 1694. Các bản chép tay ở Roma, văn khố Propaganda Fide, kho Informazioni; quyển 135, trang 223-233; Roma, thư viện Trung ương Quốc gia, Fondo Gesuitico, quyển 1255, số 49; bản ngắn hơn ở Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, tập 49/ V/ 32, tr. 789  791. Trong chú thích đã dẫn, chúng tôi đã nêu hai tác phẩm nói đến cuộc tranh chấp nầy: Henri CHAPPOULIE, Roma et les Missions d’ Indochine, và António DA SILVA REGO, Lições de Missionologia.

74.  Chẳng hạn xem A. THOMASI, La conquête de l’ Indochine, Paris, Payot, 1934, tr. 13: “Ở Annam cũng như ở Xiêm, những người Pháp đầu tiên thấy được là những nhà truyền giáo. Cha Alexandre de Rhodes cập bến Đàng Trong vào năm 1624, sống 25 năm ở xứ nầy và ở Đàng Ngoài; ngài đưa về được tấm bản đồ đầu tiên của xứ ấy, một cuốn từ điển Annam-Latinh-Bồ đào nha, một bộ sử Đàng Ngoài và nêu lên những khả năng về thương mại. Ngài viết: “Đấy là một chỗ nên chiếm lấy và, khi định cư được, thì thương nhân Âu châu có thể tìm thấy một nguồn lợi phong phú và giàu có” - Thomazi ghi chú với chỉ dẫn trang sách, nơi tác phẩm của Alexandre de Rhodes về Divers voyages (đã nói đến trong chú thích 9 ở trên); nhưng lối trích dẫn hàm hồ nầy thường được lấy lại và bình luận (với ý xấu) trong các sách được xuất bản của Việt Nam sau nầy, dường như là một sự bịa đặt của Thomazi. Về việc này xem VƯƠNG Đình Chữ “Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes”,  Công giáo và Dân tộc, TP HCM, số 901,4.4.1993, tr. 18-19.

75.  Tác phẩm chính của Pierre HUARD và Maurice DURAND, Connaissance du Viêt-nam (Paris, Imprimerie Nationale và Hà nội, EFEO, 1954), trong chương có tựa đề “Việt Nam và người Âu châu” chỉ nêu lên hai gợi ý bên lề liên hệ đến người Bồ đào nha, mà không có liên quan gì đến việc chuyển vần latinh chữ viết (trang 51-52). Trong các sử gia về các cuộc truyền giáo, có thể nêu Alphons MULDERS: Khi nói đến công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, tác giả không hề nhắc đến nước Bồ đào nha hoặc người Bồ đào nha, dường như Alexandre de Rhodes đã một mình làm hết mọi chuyện (Missiegeschiedenis, Bussum [NL], Paul Brand, 1957, tr. 337).

76.  Người ta có thể có lý chứng về việc nầy khi lược qua các thư mục dành cho vùng nầy và vào thời nầy. Trong các tác phẩm gần đây, có thể nêu: NGUYỄN Thế Anh, Bibliographie critique sur les relations entre Viêt-Nam et Occident (ouvrages et articles en langues occidentales), Paris, Maisonneuve et Larose, 1967; Kenndy G. TREGONNING, Southeast Asia: A critical bibliography, Tucson, University of Arizona Press, [1969]; Chantal DESCOURS-GATIN, et Hugues VILLIERS, Guide de recherches sur le Viêt Nam: bibliographies, archives et bibliothèques de France, Paris, L’ Harmattan, 1983. Còn về thời xa xưa hơn, xem tác phẩm cổ điển chính của Henri CORDIER, Bibliotheca Indosinica: Dictionnaire bibliographique des ouvrages relatifs à la péninsule indochinoise, 4 tập, Paris, Ernest Leroux, 1912-1915, và Bản Tra của nó, do M.-A. ROLAND-CABATON, Paris, Van Oest-Leroux, 1932 (tái bản năm tập: New York 1967 và Đài loan 1969). Còn thư mục về các công cuộc tr liệu và nghiên cứu), tác phẩm qui chiếu không thể thiếu là : Robert STREIT và tiếp theo. (ed.). Bibliotheca Missionum, 30 cuốn, Münster, rồi Aix-la-Chapelle, rồi Roma/Fribourg-en-Brisgau / Wienne, Herder, 1916-1975 (về Đông dương, đặc biệt xem các cuốn 4 [1245-1599], 5 [1600-1699], 6 [1700-1799], 11 [1800-1909], và 29 [1910- 1970]); tác phẩm nầy được nối tiếp bởi Bibliografia Missionaria (Johannes ROMMERSKIRCHEN và tiếp theo, ed.) xuất bản hàng năm ở Roma kể từ 1935. Còn về lịch sử hội dòng Tên, có thể có những thư mục riêng, trong đó có László POLGAR, Bibliographie sur l’ histoire de la Campagnie de Jésus 1901-1980: tập II/2. Các xứ: Mỹ châu, Á châu, Phi châu, Đại dương châu, Roma, 1986.

77.  Ta có thể trích dẫn một trường hợp gần đây, nhằm lợi ích tổng quát hơn là khoa học. Ngày 18.1.1996, nhân dịp thăm viếng chính thức của Hội đồng các giám mục Pháp, tờ nhật báo La Croix (Paris) đã đăng tải một bài báo do Frédéric Mounier ” Giáo hội Pháp quay về Giáo hội Việt Nam”; nhà báo đóng ngoặc trích lại bài lời của chủ tịch Hội đồng giám mục: ” Giáo hội nầy có gốc Pháp. Nó thành lập nhờ nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Xem bài viết đặt lại vấn đề chúng tôi, đăng trể trên chính tờ báo nầy ngày 12.6.1997 dưới tựa đề "Giáo hội Công giáo Việt Nam có phải là Pháp không?" Và Roland JACQUES, “Ai đã thành lập Giáo hội Việt Nam" trong Định Hướng, số 14, mùa đông 1997, tr. 120-124.

78.  Trong các sử gia Việt Nam, thí dụ nên xem LÊ Thành Khôi, Histoire du Viêt-nam des origines à 1858, Paris, Sudestasie, 1982. Trong các sử gia về các cuộc truyền giáo của Công giáo ở Việt Nam, chẳng hạn xem luận văn của Nguyễn Hữu Trọng, Le clergé national dans la fondation de l’ église au Viêt Nam. Les origines du clergé Vietnamien (Paris, Institut Catholique, 1955), xb. tại Saigon, Tinh Việt, 1959, với những luận cứ trái ngược lại do Eusebio ARNAIZ, “En torno al patronato portugués”, trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau 57, 1959 và 58, 1960, và do Manuel TEIXEIRA, As Missões Portuguesas no Vietnam (đã trích dẫn trong chú thích 41), passim.

79.  Xem các bản văn hội nghị: Nguyễn Đức Diệu, ed., Đô Thị Cổ Hội An. Hội thảo quốc tế tổ chức tại Đà Nẳng ngày 22, 23-3-1990, Hà nội, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991.

80.  Xem Hồng Nhuệ [bút hiệu của Nguyễn Khắc Xuyên], Công trình nghiên cứu tiếng Việt của một người Thụy sĩ ở Kẻ Chợ Đàng Ngoài Onufre Borgès 1614-1664: góp í với Roland Jacques về Công trình nghiên cưú tiếng Việt của mấy người Bồ tiên phong cho tới 1650, Paris, do tác giả xb., [/Fountain Valley, Ca.(Hoa kỳ), Thánh Linh], 1996. Sách dày 221 trang dịch ra việt ngữ những bản viết tay mà chúng tôi đã xb., và lấy lại phần chính các chú thích của chúng tôi (xem Roland JACQUES, L’¿uvre de quelques pionniers portugais, đã nhắc ở chú thích 53 trên đây); tác giả đã dùng giọng văn tranh biện gay gắt để bênh vực luận cứ truyền thống chủ trương cho rằng chỉ có Rhodes là người khai sáng chính yếu về chữ quốc ngữ.

81. Nhiều khía cạnh của chuyến đi nầy chỉ được biết qua bản tường thuật của Rhodes. Manuel de Azevedo, sinh ở Viseu (Bồ đào nha) năm 1581, chết tại Macao năm 1650. Với tư cách là “kinh lược các vùng truyền giáo của Nhật bản và Trung hoa” (1644-1650), ngài là thẩm quyền cao nhất của hội dòng Tên ở Viễn đông. Ngài được một vị khác người Bồ đào nha phụ tá, João Cabral, bấy giờ là viện trưởng học viện và làm phó-giám tỉnh (1645-1646). Sinh ở Celorico da Beira (Bồ đào nha) năm 1598, Cabral làm kinh lược ở Đàng Ngoài trong các năm 1647-1648. Chính ngài chủ trì cuộc họp ở Macao (1645) của chúng ta đã nói đến. Ngài chết tại Goa năm 1669.

82.  Ngoài các tác phẩm của Henri Chappoulie và António da Silva Rego trích dẫn ở trên (chú thích 40), về vấn đề nầy có thể nhắc đến Ignatio TING Pong Lee, "La actitud de la sagrada congregación frente al Regio Patronato”, trong Joseph METZLER, (ed.), Sacr¿ Congregationis de Propaganda Fide memoria rerum. 350 ans au service des missions 1622-1972, tập I/1, Roma/ Fribourg-en-Brisgau /Vienne, Herder,[1971], tr. 353-438.

83.  Kể từ năm 1654, nghĩa là 5 năm trước khi chấm dứt các cuộc thảo luận ấy, liên quan đến tương lai công cuộc truyền giáo tại Việt Nam vuợt ra khỏi khả năng của Rhodes: việc bổ nhiệm các giám mục cho Việt Nam, “công việc” được ủy thác cho ngài lúc đầu khi rời khỏi Macao, từ nay do các cơ quan thẩm quyền tại Roma xử lý. Chính ngài lại được gửi đi Ba tư. Xem Lucien CAMPEAU, “Le voyage du Père Alexandre de Rhodes en France 1653-1654”, trong Archivum Historicum Societatis Iesu 48, 1979, tr. 65-85, với những tài liệu các văn khố đã trích dẫn.

84.  Chẳng hạn Stephen NEILL, A history of Christian missions (Harmondsworth Middlesex [GB], Penguin, 1979). Tác giả quả quyết: "The hero of this epic of conversion was Alexandre de Rhodes” (tr. 195). Nghĩ rằng Rhodes là người duy nhất thực hiện lối viết quốc ngữ, Neill viết tiếp: “The second gift of Rhodes to the Church was the reduction of the Vietnamese language to writing in the Latin alphabet. He must have had, in addition to great gifts for languages, a remarkably accurate ear; for Vietnamese is a tonal language, and the accurate representation of these tones is extraordinarily difficult...” (tr. 196). Hẳn là phải đặt lại vấn đề; ngoài ra ở đây, tác giả diễn tả như một lối giả thiết, khi không trích dẫn được tài liệu nào chứng minh cho xác quyết của mình.

Tiểu sử của Rhodes được viết ra gần đây hơn cả là do Jean LACOUTURE (“Un Avignonnais dans la rizière”, trong Jésuites. Une multibiographie, tập I, Les conquérants, Paris, Seuil, 1991, tr. 297-324), lối viết khá “khéo léo” vừa nêu lên nhân vật nầy cũng như công việc truyền giáo của con người gốc Avignon ấy trong khung cảnh như “huyền thoại”, vừa cố đáp ứng những yêu sách của lối phê bình “lịch sử” của các tác giả tân kỳ. Đáng tiếc là có quá nhiều chi tiết sai lầm làm cho bản văn mất đi giá trị lịch sử chính yếu của nó. Một công trình gần đây nhất khai triển lịch sử công cuộc truyền bá kitô giáo tại Việt Nam trong tiền bán thế kỷ 17 do tu sĩ dòng Tên Philippe LéCRIVAIN: “La fascination de l’ Extrême-Orient, ou le rêve interrompu” (L’ âge de raison. 1620/30-1750, tập 9 trong bộ l’ Histoire du christianisme des origines à nos jours dir. do Jean-Marie Mayeur, Charles Pietri, André Vauchez và Marc Venard, [Paris,] Desclée, [1997], tr. 755. Rhodes là chính tác giả sáng chế về ngữ học, thì vẫn tiếp tục trình bày ngài như vị tiên phong, người chủ động chính đáng được nêu lên trong trang sử nầy.

85.  Chẳng hạn xem Nicole Dominique Lê, Les Missions étrangères et la pénétration française  au Viêt-Nam, Paris / La Haye, Mouton, 1975; THẾÁ  Hưng, "L’ Église catholique et la colonisation française”, trong Les Catholiques et le mouvement national, études Vietnamiennes (Hà nội) số 53, 1978, tr. 9-81; TRẦN Tam Tỉnh, Dieu et César: les catholiques dans l’histoire du Viêt Nam, Paris, Sudestasie, 1978; [collectif] Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Kỷ yếu hội nghị khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 11 và 12-3-1988 [TPHCM], Viện khoa học xã hội và Ủy ban tôn giáo nhà nước, 1988.

86.  Về vấn đề phục hồi danh dự, xem chú thích 12.

      Cộng đồng Việt Nam hải ngoại có hai khuynh hướng cực đoan về vấn đề nầy. Có nhiều người công giáo ca tụng Alexandre de Rhodes quá mức. Nhiều giới khác, nhân danh tinh thần quốc gia, lại phản ứng ngược lại với suy nghĩ rằng ca tụng người Pháp nầy như một ân nhân của Việt Nam dường như là cố biện minh cho chế độ thực dân và vì thế người ta phải tố giác.

87.  Xem nghiên cứu của Pierre-Yves MANGUIN về “Hiệp ước Bangkok ngày 5-12-1786”, trong Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802), Paris, EFEO, 1984, tr. 55-73; cũng như trong bản văn trang 62-67.

88.  Đây cũng là trường hợp của hai tác phẩm lớn của Alexandre de Rhodes “Tvnquinensis historiae libri dvo [...], Lyon, J.-B. Devenet, 1652 [bản dịch pháp ngữ cũng do nhà xb. nầy từ 1651]; và Divers voyages et missions (nêu lên ở trên, trong chú thích 9). Chẳng hạn xem ý kiến của ủy ban giám định của hội dòng Tên tại Roma về cuốn sách sau nầy: “Các cha duyệt sách xét rằng hai cuốn sách về chuyến đi của cha Alexandre de Rhodes có thể được in, để khích lệ nhiều người về mặt thiêng liêng”, Roma,ARSI, Fondo Gesuitico 668, tr. 196. Liên quan đến cuốn sách của Rhodes viết về thầy giảng Anrê, một trong các giám định viên minh nhiên mong rằng Rhodes cần lưu ý nhiều hơn về các qui luật chép tiểu sử (tlđd. tr.186). Chúng tôi thấy dường như một số  nhà chép sử hiện đại dựa vào các sách nầy nhưng không lưu ý đủ tinh thần kiểm thảo.

89.  Về các kho văn khố Bồ đào nha và Tây ban nha liên hệ, chẳng hạn nên xem Josef Franz SCHÜTTE, El ‘Archivo de Japón’, Vicisitudes del Archivo jesuítico del Extremo Oriente y descripción del fondo existente en la Real Academía de la Historia de Madrid, Madrid, Real Academía de la Historia, 1964; và António DA SILVA REGO, “Jesuítas na Ásia”, trong Biblioteca da Ajuda. Revista deDivulgação, I/1, 5.1980, tr. 95-112; Maria Augusta DA VEIGA E. SOUSA, Roteiro e descrição sumária dos documentos que existem, em microfilmoteca do Centro de Estudos de História e Cartografia antiga [= BFUP số 47], Lisbonne, 1986. Còn các kho Roma, phần chính văn khố của hội dòng Tên (ARSI), đặc biệt là kho JAP.-SIN và Fondo Gesuitico; cũng có thể xem thư viện trung ương quốc gia, Fondo Gesuitico và văn khố Propaganda Fide. Tất cả các cơ sở nầy mở cửa cho các nhà nghiên cứu và giúp họ dễ dàng có  những dụng cụ truy cứu.

90.  Một số các nhà nghiên cứu Việt Nam đã trình những luận án sử học hoặc có liên quan đến lịch sử, nói đến thời liên hệ, tại các đại học ở Paris và Roma. Rất ít luận văn được xb., và gặp phải những thiếu sót như đã nêu lên, đặc biệt vì không đọc hiểu các nguyên bản viết bằng tiếng Bồ đào nha. Chúng tôi xin nêu ra đây: Nguyễn Hữu Trọng, Le Clergé national dans la fondation de l’ église au Viêt-nam. Les origines du clergé Vietnamien (Paris, Institut Catholique, 1955); Vũ Khánh Tường, Les missions jésuites avant les Missions étrangères au Viêt Nam, 1615-1665 (Paris, Institut Catholique, 1956); Phạm Văn Hội, La fondation de l’ église au Viêt Nam, 1615-1715 (Roma, Université Grégorienne, 1960); Đỗ Quang Chính, La mission au Viêt-nam, 1624-1630 et 1640-1645, d’ Alexandre de Rhodes, sj, avignonnais (Paris, école Pratique des Hautes études, 1969). Luận án thần học: Nguyễn Khắc Xuyên, Le catéchisme en langue vietnamienne romanisée du P. Al Grégorienne, 1956-1957); Placide Tân Phát, Méthodes de catéchèse et de conversion du P. Alexandre de Rhodes, 1593-1660, (Paris, Institut Catholique, 1963); MAI Đức Vinh, La participation des notables de chrétientés vietnamiennes aux ministères des prêtres. Recherche historico-pastorale, 1533-1953 (Roma, Université St.-Thomas, 1977); Nguyễn Chí Thiết, Le Catéchisme du Père Alexandre de Rhodes et l’ âme vietnamienne (Roma, Université Grégorienne, 1980). Các luận văn về giáo luật: Nguyễn Việt Cử, De institutione Domus Dei in missionibus Tonkini: Studium Juridicum (Roma, Université Grégorienne, 1954); Nguyễn Trọng Hồng, L’ Institut des catéchistes et les missions d’ Indochine au XVIIe siècle (Roma, Université Urbanienne, 1959); Phạm Quốc Sử, La Maison de Dieu, une organisation des catéchistes au Viêt-Nam (Roma, Université Urbanienne,1975). Như chúng ta đã từng nêu lên, luận văn của Nguyễn Hữu Trọng đã từng được phát hành, và gặp đào nha: xem lại chú thích 78.

  Ngoài ra, nhiều giáo sư đại học Việt Nam đã viết về con người và sự nghiệp của Alexandrede Rhodes, đặc biệt vào dịp kỷ niệm 300 năm ngày chết của ngài. Xem các bài báo trong tập san Tạp chí Đại học, 1960 và 1961 - Huế; số đặc biệt của Việt Nam khảo-cổ tập san Sài gòn. 300 năm sau ngày cha Đắc Lộ qua đời 1593-1660 số 2/1961, 258 trang.

91.  VƯƠNG Lộc (éd.), Annam dịch ngữ, Hà nội, Trung tâm từ điển học, 1995. Đây là bảng từ vựng dùng cho cơ quan hành chính (nhà Minh) đặc trách giao dịch với các nước nhỏ phải triều cống.

92.  “Relaçã da gloriosa morte que padeçerã pella confissã da feê de Xpõ nosso Senhor tres cathechistas dos Padres da companhia de JESVS em o Reino de Cochinchina, nos annos de 1644., e 1645”, bản chép tay chưa xuất bản đề năm 1649 tại Goa, ký tên Mathias DA MAYA: ARSI, JAP./SIN. 70a, tập rời.

93.  Batalhas da Companhia de Jesus na sua gloriosa provincia do Japão, bản chép tay năm 1650, xb. Luciano CORDEIRO, Lisbonne, Sociedade de Geografia/Imprensa nacional, 1894: tr. 185-198.

94.  Noticias summarias das perseguições da missam de Cochinchina [...], Lisbonne, Miguel Manescal, 1700, tr. 50-76. Tuy nhiên, bản văn nầy có nét đặc sắc riêng so với bản chính.

95.  Alexandres de RHODES, Lịch sử về đời sống và cái chết vinh quang của năm cha dòng Tên, đã chịu khổ ở Nhật bản. Với ba linh mục triều, năm 1643, Paris, 1653.

96.  Xem Alexandre DE RHODES, Divers voyages et missions (đã dẫn ở chú thích 9),tr. 74.

97.  Metello SACCANO, Relation des progrèz de la Foy au royaume de la Cochinchine ès années 1646, et 1647, Paris, Sébastien et Gabriel Cramoisy, 1653, tr. 129.

98.  Xem phúc trình hàng năm của Gaspar do Amaral ngày 31.12.1632: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, collection Jesuitas na Ásia, cuốn 49/V/31, tr. 219v.

 99.  Xem nghiên cứu về đề tài nầy của Manuel CADAFAZ DE MATOS, trong phần dẫn nhập của tái bản cuốn đầu in năm 1588 tại Macao: Christiani pueri institutio, adolescentiaeque perfugium của Ioannes BONIFACIO (Macao, Instituto Cultural de Macau, 1988).

100.  Francisco de Santo Agostinho MACEDO, Filippica Portuguesa contra la invectiva castellana [1645], trích dẫn bởi Charles Ralph BOXER, The Church Militant and Iberian Expansion 1440-1770, Baltimore /Londres, Johns Hopkins University Press, [1978], tr. 91.

101.  Về vấn đề nầy, xin xem nghiên cứu của chúng tôi. L’¿uvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’ en 1650 (xem chú thích 53).

102.  André Georges HAUDRICOURT, “Origine des particularités de l’ alphabet vietnamien”, trong Bulletin “Dân Việt Nam”, đã nói ở chú thích 8.

103.  Kenneth J. GREGERSON, “A Study of Middle Vietnamese Phonology”, trong Bulletin de la Société des études Indochinoises, đợt mới 44/2, 1969, tr. 131-193.

104.  HOÀNG Thị Châu, Tiếng Việt trên các miền Đất nước (Phương ngữ học), Hà nội, xb. Khoa học Xã hội, 1989.

105.  Một bằng chứng cho thấy qua PHAïM Xuân Hy, “Ba bản ‘Kinh Tin Kính’ bằng chữ Nôm”, trong Trần Anh Dũng (dir.). Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam 1960-1995, Paris, tự xb., 1996, tr. 487-503. Ngoài ra, xem bài dẫn nhập trong tác phẩm của Vũ Văn Kính, Đất nước 4000 năm: Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII (Qua tác phẩm của Maiorica), Nhà xb. TPHCM, 1992.

Về chữ nôm, có nhiều thư mục bằng tiếng Việt, chúng ta chỉ nêu lên đây, chẳng hạn Trần Nghĩa, “Dẫn nhập tổng quát”, trong Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, do Trần Nghĩa và François GROS, Hà nội, Ed. Sciences Sociales, 1993, tập I, tr.15-47; Nguyễn Đình Hòa, “Chữ Nôm, The demotic system of writing in Vietnam”, trong Journal of the American Oriental Society, 1959; Bửu Cầm, “Nguồn gốc Chữ-nôm”, trong Văn hóa Nguyệt san 50, 1960, 347-355; Bửu Cầm, Dẫn-nhập nghiên-cứu Chữ-nôm, Sài gòn [1962].

106.  Chẳng hạn xem Stephen NEIL , A history of Christian missions  (chú thích 84):“Furthermore, he [Rhodes] rejected the tendency of the scholars to a high style of writing, with many words and phrases borrowed from Chinese and written in Chinese characters; he set himself to develop the quoc-ngu, the ordinary language of the people, and to make it a fit instrument for the expression of Christiantruth” (tr. 196-197).

107.  Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam des origines à 1858, Paris, Sudestasie, 1982, tr. 290.

108.  “Uma copiosa liuraria de 48 volumes, que compos, ou uerteo nesta lingoa, e letra natiua”: Francisco RANGEL, Annua du Tonkin 1659, ARSI, JAP.-SIN. 64, tr. 366v. Giorolamo Maiorica là một tu sĩ dòng Tên người Ý truyền giáo tại Đàng Ngoài. Xem Hoàng Xuân Hãn, “Girolamo Majorica. Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque Nationale de Paris”, trong Archivum Historicum Societatis Iesu, 22, 1953, tr. 203-214.

109.  Chẳng hạn xem các danh mục của các nhà in truyền giáo ở Qui nhơn 1920, Kẻ sở 1920 và 1925, Tân định 1922, Hà nội 1926, Phú nhai 1927... Chúng ta cũng có thể ghi nhận việc tái bản một truyện thánh rất xưa bằng chữ nôm về thánh Antôn de Padoua (hoặc đúng hơn và Antôn Lisbonne), một vị thánh Bồ đào nha rất được dân chúng mến mộ: Chuyện ông thánh Antôn hay làm phép lạ, chuyển ngữ do Nguyễn Hưng [xb.tpHCM do tác giả], 1995. Việc phổ biến tập sách nhỏ nầy, dấu tích của một thời đã qua. Vì từ nay phải chuyển ngữ từ chữ nôm qua quốc ngữ, biểu hiện một nỗ lực đối thoại văn hóa mà những nhà truyền giáo đầu tiên và các tín hữu đầu tiên thực hiện trong cộng đồng công giáo Việt Nam, xuyên qua các thế kỷ.

110.  Xem những suy nghĩ của Francisco de Pina về vấn đề nầy trong bức thư đã dẫn (Biblioteca da Ajuda, cuốn 49/V/7, tr. 413-416). Những thủ bút đầu tiên do người Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ có từ 1659: đó là những bức thư gửi cho tu sĩ dòng Tên Giovanni Filippo Marini: ARSI, JAP.-SIN, 81, tr. 246-259v.

111.  Xem André MARILLIER, Nos pères dans la foi. Notes sur le clergé catholique du Tonkin de 1666 à 1765, tập 3, [Paris], église d’ Asie, [1995], tr. 170-172. Trong văn khố của Hội truyền giáo Paris, tác giả đã nêu lên một cách có hệ thống các ám chỉ nói đến việc sử dụng tiếng nói và hai cách viết tiếng nói nầy; những kết luận rút ra hoàn toàn trùng hợp với những gì nêu lên ở đây. Sự kiện đó đòi hỏi phải xét lại những khẳng quyết vội vàng; chúng tôi nêu lên ví dụ qua một quan điểm rất ôn hòa, đó là quan điểm của Jean COMBY: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế chữ quốc ngữ, nhưng ngài đã “cống hiến việc phổ cập hóa chữ viết đó” (Deux mille ans d’ évangélisation, Tournai, Desclée, 1992, tr. 165-166). Nói đến việc phổ cập hóa vào thế kỷ 17 là hoàn toàn phản niên kỷ. Cũng như xác quyết sau đây của Henri BERNARD- MAỴTRE : “Alexandre de Rhodes phải được xem như nhà truyền bá chính về sáng chế phi thường nầy” ( Le P. de Rhodes et les Missions trong Simon DELACROIX (dir.), Histoire universelle des Missions catholiques, tập II, Paris, Grund, [1957], tr. 53-69: tr. 57). Kỳ thực, các tác phẩm của Rhodes được in ra rất ít được “phổ biến”.

112.  Ở đây chúng tôi không dùng các ý niệm “ngữ âm” và “âm vị” một cách chính xác như các nhà ngữ học thường sử dụng. Ngoài ra, trong trường hợp chữ quốc ngữ, các khuynh hướng đề cập vấn đề không có gì tuyệt đối. Việc ghi chép theo ngữ âm muốn mô tả hết sức trung thực các hiện tượng cấu âm và âm học, nghĩa là cái gì thực sự được đọc lên và được nghe. Còn âm vị học là một khoa học mới có đây, nhằm nghiên cứu các cách phát âm dưới góc độ của vai trò mà các cách phát âm đã thực hiện (các đối vị..., ) dựa vào những ý niệm về hệ thống và sự thích đáng trên bình diện truyền thông.

113.  Thật vậy, các nhà ngữ học hiện nay cho rằng ba phụ âm mũi-cuối ở phần sau hết của một chữ nêu lên trên đây không chống kháng nhau, nhưng chỉ là một siêu-âm-vị ( ÷ ), mà lối phát âm thay đổi tùy thuộc vào nguyên đi trước. Vì thế:

- biến thể mặt lưởi - vòm mềm [ ÷ ] xuất hiện:

. sau những nguyên âm có độ mở tối đa /a/ (lang); và /a/ (lăng)

. sau những nguyên âm ngậm: / Ã / (vâng);   /Q/ (lương); và / i / (lưng);

. (hiếm khi ở) sau nguyên âm mở phía trước / ε / (leng);

. một cách ngoại lệ khi ở sau một nguyên âm hơi mở tròn phía sau / 7 / (boóng);

- biến thể mặt lưởi - vòm trước [ø] xuất hiện sau các nguyên âm mặt trước /¿/ (lanh); / e /  (lênh); và / i /  (linh);

- biến thể môi - vòm mềm [ NW ] (vào thế kỷ 17 và 18 được ghi chú bằng dấu <~> xuất hiện sau các nguyên âm tròn phía sau /  /  (long), /o/  (lông); và sau    / u /  (lung).

Cách nói của âm vị học diễn tả như sau: khi các nguyên âm đều đã được ghi bằng những ký hiệu khác nhau, thì ba lối viết cuối có thể ghi bằng cùng một ký hiệu theo mẫu tự, chẳng hạn <ng>. Trở ngại ở đây là các nguyên âm Việt Nam  / a /  và  / ỉ /  đều được ghi bằng một ký hiệu duy nhất là <a>.

Nếu vấn đề giải quyết, thì chỉ có sự khác biệt sau nguyên âm /  / cho những chữ như <boong>, <boóng>, đối chống với <bong>, <bóng>. Nhưng đó là những trường hợp hết sức đặc biệt nên hẳn đây là một sự đối kháng về phát âm “không mấy quan hệ” trong âm vị học. Chính tả mới ngày nay đã tìm được giải pháp cho vấn đề bằng cách sáng chế ký hiệu mẫu tự <oo>. Những nhà sáng chế người Bồ đào nha đã từng mượn dấu phụ <~> (đặt trên chữ <o> vàø<u> phần cuối) nơi chữ viết Bồ đào nha của họ.

114.  Đáng lưu ý khi nhận ra được rõ ràng một sự tiến hóa ngay nơi một người sử dụng lối chữ nầy. Ta thấy cũng một người ký tên Việt Giacôbê Nguyễn ghi lại những lời khai của các nhân chứng trong vụ án phong thánh cho những người Tây ban nha tử đạo đầu tiên tại Việt Nam trong năm 1746 và trong năm 1768. Giữa hai năm nầy có những qui ước chính tả đổi mới (Archivio Segreto Vaticano, kho Riti số 3014 và 3013). Nhưng nhân chứng rõ rệt nhất về những đổi thay nầy là cuốn Dictionarium Annamiticum Latinum de Pierre PIGNEAU DE BéHAINE, bản viết tay hoàn thành năm 1772, xb. sau đó bởi Jean-Louis TABERD: Dictionnarium Annamitico-Latinum, Serampore [Inde], 1838. Trái lại các bản văn của Philiphê do Rosário BỉNH vẫn giữ lại những qui ước cũ; vị tu sĩ dòng Tên người Việt nầy, sống ở Lisbone từ 1796 cho đến khi chết vào năm 1832, là người chủ trương bênh vực quyền bảo trợ (padroado) của Bồ đào nha trong các công tác truyền giáo tại Việt Nam, và không muốn ảnh người Pháp (xem Biblioteca Apostolica Vaticana, kho Codici Borgiani Tonchinesi, số 1 đến 23).

115.  Xem các minh xác trên đây ở chú thích 3.

116.  Lợi ích của chữ quốc ngữ ngay từ 1907-1908 đã được phong trào văn chương ái quốc “Đông kinh Nghĩa thục” đề xướng. Tuyên ngôn của phong trào nầy, tức khắc bị chính quyền thực dân đàn áp; tuyên ngôn đó cũng nói đến việc sáng chế chữ quốc ngữ là do “các linh mục Bồ đào nha”, nhưng không đưa ra lý chứng rõ rệt. Chúng tôi trích dẫn theo Văn tuyển Văn học Việt Nam 1858-1930, Hà nội, xb. Giáo dục 1981, tr. 195. Cũng xem thêm Nguyễn Khắc Viện (dir.), Anthologie de la littérature vietnamienne, tập III, Hà nội, éd. en Langues étrangères, 1975, tr. 25-30 và 248.

117.  Chẳng hạn xem LÊ Thành Khôi “Introduction à l’ histoire et à la culture du Viêt-nam”, trong La jeune et la rouge [Paris], école Polytechnique], số 525, 5.1997 (tr. 5-13): trang 13. Trong bài báo nầy, nhà sử học dường như đã gia giảm lối phê phán của mình (xem lại chú thích 107).

118.  Đây là điển hình về việc phục hồi danh dự cho Rhodes, qua một bản văn có tính cách quyết định, mà chúng ta có lần nói đến: "Together with European missionaries he set to romanize the script of Vietnam, using the Roman alphabet to record the Vietnamese language. It took the group nearly half a century to complete this collective work in which Alexandre der Rhodes played the main role. Not until two centuries latter did quốc ngữ (national script) become the popular written language of Vietnam and efficient vehicle in the modernization of the Vietnamese society... Alexandre de Rhodes’s services to Vietnam are immeasurable... It is time to correct the erromeous appraisal... and to do him justice in the light of truth and fairness...” ("'Let’s do Justice do Alexandre de Rhodes": Vietnam Social Sciences [Hà nội] 40, 2/1994, tr. 88-89). Theo quan điểm của chúng tôi, những gì nêu lên ở đây để tôn vinh Alexandre de Rhodes, thì hẳn nhiên cũng áp Bồ đào nha.

119.  Về vấn đề nầy, xem các suy nghĩ của Nguyễn Phú Phong “Le Vietnamien: un cas de romanisation inachevée”, trong Cahiers d’ Etudes Vietnamiennes [Université Paris VII], 10, 1989-1990, tr. 25-32.

 

 

 

Nguyễn Đăng Trúc
Số lần đọc: 3398
Ngày đăng: 25.04.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ai đã thành lập Giáo Hội Việt Nam? - Nguyễn Đăng Trúc
Phải chăng cần viết lại lịch sử ? - 1 - Nguyễn Đăng Trúc
Ngài Tả Dinh Đô Thống Chế Lê Văn Phong Đã Về Với Cháu Con - Diệp Hồng Phương
Nhà Mạc diệt vong - Hồ Bạch Thảo
Bước Đầu Xác Định Danh Hiệu Các Tiểu Quốc Thuộc Miền Bắc Vương Quốc Cổ Chiêm Thành / Champa Khoảng Thế KỶ 11-15 - Trần Kỳ Phương
Từ Chi và Phương pháp sử học phi chính thống - Lê Hải*
Sông Ðỗ Chú: biên giới lịch sử qua tư liệu Việt-Hoa - Hồ Bạch Thảo
Câu Chuyện Thất Sơn - Nguyễn Kim Nương
95 Năm Hàm Oan* - Nguyễn Kim Nương
Nhận Diện Bọn Sát Nhân Và Những Kẻ Giấu Mặt 2- hết - Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền
Cùng một tác giả
Nhớ Nguồn 1 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 2 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 3 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 4 (tiểu luận)
Nhớ Nguồn 5 (tiểu luận)