Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.312 tác phẩm
2.745 tác giả
376
115.863.888
 
DOSTOEVSKY Với HỒI KÝ VIẾT DƯỚI HẦM
Võ Công Liêm

 

           ’the voice of the blood’ (Nietzsche)

 

       Trong số những tuyệt tác phẩm của Fyodor Dostoevsky* để lại đều có một giá trị sâu sắc về đời cũng như sự nghiệp gắn liền với nhau; âu đó cũng là nỗi lòng của Doetoevsky.

Đặc biệt tác phẩm: ’Zapiski iz podpol’ya / Notes From Underground / Hồi Ký Viết Dưới Hầm’. Với một văn phong hiện đại cũng đủ nói lên một cái gì rộng mở đến với người đọc qua tác phẩm nầy hoặc mang lại một dẫn chứng cụ thể như chìa khóa mở toang cánh cửa vốn đã đóng kín từ lâu, một cái gì sâu thẳm thuộc cảm tính của thời buổi chúng ta đang sống; là một gói gém trọn vẹn, ghi lại những chứng tích thời gian, một dấu mốc lịch sử của đất nước Nga-La-Tư thời đó.

 

Từ ngữ ’con người dưới lòng đất/underground man’ nó trở thành ngữ-ngôn của một nền văn hóa đương đại, nó trở thành một chỉ định từ như nói lên một danh tính, một xác định cụ thể của vai trò. Từ tự nó như có một luật định tự nhiên của con người bị chà đạp dưới đáy xã hội, một đòi hỏi đầy đủ ý nghĩa của sự bừng lên, nãy sinh từ ý thức vô-tưởng, một siêu-thức  vượt qua mọi giới hạn bình thường (hyperconsciousness) trạng huống của bức xúc được tái tục là những gì xẩy ra trong đời dù cho một hành động ngây ngô, khờ dại.

  

Ở ’Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ là tiếng nói của con người chủ xướng lời kêu gọi tự do, dâng hiến và phản kháng, một tâm huyết chính qua những đề tài mà ông đã viết ra. Cái yêu cầu của ông là vượt thoát ra khỏi biên cương ràng buộc, chống lại những gì gọi là luật điều tự nhiên; ngay cả việc phản đối trực tiếp những gì có liên quan đến khoa học kỹ thuật và những gì có tính thực dụng trong cuộc đời của Dostoevsky, ông chủ trương chối bỏ mọi dữ kiện do từ xã hội đưa ra; mà chỉ tuân phục những gì có lợi ích cho con người và cho chính bản thân ông. Dostoevsky từ chối luôn cả y khoa, dù rằng cha ông là một y sĩ và tranh cải những lý luận triết học những học thuyết đó tự nhiên làm mù quáng ở nơi ông một đôi phần. Ông cho rằng qui luật tự nhiên gây ra từ ý thức, một ý thức hoàn toàn là một cơ cấu thiết yếu, một thay đổi mới không phải giải thích bởi qui luật tự nhiên.

 

Tác phẩm ’Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ được ghi nhận như một thành quả tiếng tăm trong văn học sử thế giới là một trong những tác phẩm -giống như Hamlet, Don Quixote, Don Juan và Faust- chuẩn mực cho một công trình văn chương sáng tạo, trở thành Dostoevsky chủ nghĩa (Dostoevskeanism), gần như một nền văn hóa quan trọng của thế kỷ hiện nay. Một chủ nghĩa đầy ấn tượng, một biến động nội tại và một chủ nghĩa hiện sinh của con người. Một yêu cầu cần thiết cho người nằm dưới lòng đất hoặc như đã có một cái gì dính liền với Dostoevsky; qua một tấm lòng sốt sắng có lợi chung và cảm thông cho kẻ nằm dưới lòng đất như chịu đựng một sức ép, đè nén tận tâm can, như đổ lên đầu (hailed) những đau đớn, thảm họa của cuộc đời; đó là một dự ước chống đối, một đòi hỏi công bằng xã hội mà xưa nay cứ nhìn như qui luật tự nhiên của con người (human-nature) buộc phải chấp nhận; do đó Dostoevsky phản kháng để được nói những gì của con người nằm dưới lòng đất từ bấy lâu nay. Ông bày tỏ như một dự báo kinh khiếp. Thực vậy con người nằm dưới lòng đất đã tham dự trong một tình cảnh rất chi là vây hãm và chằng chịt, rối bời của một thứ văn chương hiện đại trong một kiểu thức biểu lộ một tính cách hết sức triết học và hết sức ma lực của thời kỳ đầu tiên tạo dựng những gì của Dostoevsky sau những năm lưu đày ở Tây-Bá-Lợi-Á.

 

The underground man has thus entered into the very wrap and woof of modern culture in a fashion testifying to the philosophical suggestiveness and hypnotic power of the first great creation of Dostoevsky’s post-Siberian years.

 

Hồi Ký Viết Dưới Hầm lôi cuốn không ít sự chú ý của mọi giới cho lần xuất bản đầu tiên, không ghi nhận lời phê bình hay chỉ trích của báo giới. Năm 1883 nhà bình luận Nga N. K. Mikhailovsky đã viết trong bài báo của ông, cho Dostoevsky là: ‘Thiên tài độc ác/A Cruel Talen/Zhestoky Talant’. Trong truyện được trích dẫn một số dữ kiện cuộc đời, một vài trang nói lên tính háo dâm và tranh luận, đó là những gì mà ông đã thốt ra và hành động như một vai trò đầy linh động của con người Dostoevsky, hàm chứa một khuynh hướng đau khổ  ‘tendencies to torture’ của con người ở mọi hoàn cảnh, bất luận ở đâu cũng phải trải qua như một định hệ mà con người phải gánh chịu. Dostoevsky gánh chịu!

 

Hiển nhiên sau lần phát hành tập truyện ‘Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ là gặp phải sự chống trả mãnh liệt, đặc biệt ở phần I. Bài triết học của giáo sư Chernyshevsky cho đây là một lý luận tư kỷ ‘rational egoism’. Vài năm sau, tác phẩm ‘Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ lại được đem ra mổ xẻ kịch liệt, những lời phê phán hay bình luận vẫn còn nghi ngờ những lý lẽ của Dostoevsky là không phản ảnh cụ thể. Trong số đó A. Skaftymov tỏ ra châm biếm, tranh luận viễn ảnh của kẻ dưới hầm, bởi không hợp thức và không đưa ra một tư duy luân lý đạo đức, rõ ràng là không có ý xây dựng hay nâng đở của nhà báo Skaftymov.

 

Ông lên án Dostoevsky như sau: ‘không những chỉ là kẻ bị cáo nhưng cũng có thể là người bị truy tố/is not only the accuser but also one of the accused’.Skaftymov cũng nhận thức được rằng Dostoevsky có dự mưu chống đối xã hội, chống đối chính quyền, một tư tưởng phá hoại của kẻ thù địch… Nhưng sau này; 1920 được trả giá cao cho những ai thông dịch về những tranh luận đầy ý nghĩa xưa cũ của Dostoevsky, không những trong đất nước Nga mà ở khắp nơi trên thế giới; tuy nhiên ở đây là một khám phá tình cờ chớ không đặc vai trò của ‘Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ là văn phẩm văn chương nghệ thuật. Mặt khác; kẻ nằm dưới lòng đất không những chỉ là loại người tâm-lý-đạo-đức-luân-thường (moral-psychological), tất cả thể loại đó nói lên cái lòng tư kỷ; Dostoevsky  muốn phơi bày, tiết lộ tất cả những tệ đoan xã hội do luật tự nhiên con người đề ra làm băng hoại nền luân lý, ông cũng cho đây thuộc về ý niệm xã hội học, những gì thuộc về tâm lý phải nhận biết như một cái gì gần gũi, thân thiết, một gạch nối tương quan giữa xã hội và con người như một chấp nhận trong cuộc đời này.

 

Chỉ còn lại một cảm thông cho kẻ nằm duới lòng đất với một lời nhắn nhủ ân cần rằng; ‘một con nguời minh mẫn trong thế kỷ nầy phải là thế (chịu đựng) và phải hết lòng luân lý đạo đức; đó là cử chỉ cao qúy được coi là có một chút gì sáng tạo’ Một tư duy như thế đưa tới một kết quả của siêu-thức (hyperconscious). ‘Đó là ý thức cao cả, tuyệt vời như chúng ta dùng để nói ở một lần nào đó(ở năm 1840). Nhưng, tôi hoàn toàn tuyệt vọng đã đắm chìm trong bãi lầy của tôi, có thể nhiều hơn thế nữa, tôi hoàn toàn chìm vào vực thẳm’(All the sulime and the beautiful, as we used to say at one time (the 1840’s). But the more deeply I sank into my mire the more capable I became of sinking into it completely. (p.102 HKVDH).

 

Thì đó cũng đủ cho ta thấy một trạng thái lạ lùng về một nền luân lý khiếm nhược mà những sự cớ như thế kẻ nằm dưới đáy tận cùng (underground man) đối đầu hai mặt: vừa là phòng thủ vừa là bị khinh miệt, một trạng huống rối bời bởi một chấp nạp hoàn cảnh. Nhưng Dostoevsky tự nhủ rằng:’Tôi đạt đến mục đích/I reached the point’. Ông nói trong dịp trở về ở Peterburg. Từ đó cho ta thấy ở Dostoevsky là con người của hành động ‘the man of action’. Cho nên chi những gì quá khích hoặc châm biếm là trật chỗ của bình thường nghĩa là không phù hợp tâm lý đạo đức’moral-psychic’. Chúng ta nghiêm chỉnh mà nắm lấy cái gì tương quan với con người nằm dưới hầm, ấy là những gì Dostoevsky  đã nói ra trong trí tưởng của ông. Dostoevsky tin ở chính ông là không có gì hơn l’homme de la nature et de la vérité luật tự nhiên của con người và sự thật là nền móng căn bản dành cho con người hành động; chận đứng tất cả những vấn đề đưa ra và bất cứ lý do nào. Đó là siêu-thức của kẻ nằm dưới hầm, bởi họ thiếu may mắn mà chỉ có bằng một thứ tình cảm thương hại ‘-chỉ còn cách, đánh bể bức tường nếu anh có thể.-that is, to beat the wall as hard as you can’ (P.103-105 HKVDH). Đối với kẻ ở dưới hầm cuộc đời gần như thiếu thốn để hóa ra ngu xuẩn ‘reductio ad absurdum’cái sự lý đó là của con người hành động và là một bày tỏ sự thật có nghĩa rằng chính bản thân Dostoesky tin vào công lý, dẫu có mù lòa nhưng cầm chắc được niềm tin chân thật. Đó là hành động ngăn ngừa những gì có thể xẩy ra từ đó thấu được con người thực nằm dưới hầm như tấm gương chiếu vào hình ảnh họ, và… (from seeing the underground man as their mirror image, and from acknowledging the greeting he might have given them: ‘hypocrite lecteur, mon semblable, mon frère’ (thơ của Baudelaire).

 

Thực ra; chúng ta không thấy ông ta, chúng ta chỉ nghe qua danh ông và cũng chưa hẳn lãnh hội một cách đầy đủ ý tứ của ông nhưng có chăng cũng chỉ là cái nhìn qua cái rạn nứt cuối chân tường. Dostoevsky chỉ ngỏ ý với thế giới cũng qua cái rạn nứt đó mà thôi, tuy nhiên ông cũng bỏ công suốt hành trình dài để lắng nghe lời bình phẩm về tác phẩm và con người của ông, ngay cả việc chống đối ra mặt, ông biết điều đó và ngay cả khi ông thường nói đó là thể loại nghịch lý a -typical paradox- không cần phải thu tập, bởi tất cả đã dự ước, tất cả là hư cấu, tất cả là ‘phiạ’ để trở thành thực. Vào truyện ta gặp ngay lời than thở, trách móc : “I am a sick man…I am a wicked man…” Tôi là thằng bệnh, bệnh ở đây không phải ốm đau, mà bệnh là ‘dở hơi’ không-giống-ai đó là lời tự thán. Tôi là thằng người tồi tệ, đốn mạt, xấu xa đó là chứng nhân của xã hội sinh ông ra như vậy để trở thành con người vất bỏ. Vậy thì ở đây Dostoevsky muốn nói chính ông hay đây là lời oán chung; ông cho tất cả những gì xẩy ra trong đời đôi khi không còn thực invented it all

 

một qui luật tự nhiên phải đối đầu l’homme de la nature! Dostoevsky có lần giới thiệu ý tưởng hợp nhất của mình, qua lời kể : đó là sự bất ổn nội tại, một cái gì lâu dài của ‘thổ ngữ’ của một tri thức riêng biệt. Tất cả dấy lên hầu hết ở tác phẩm của ông, song le ; vẫn tàn ẩn một sự phản kháng, một dâng hiến tấm lòng và một đòi hỏi tự do trong ông.

 

Chữ ‘notes/chép’ Dostoevsky dùng ở đây hết sức văn hoa -literariness- chữ nghĩa của văn chương thẩm mỹ ngụ ý hơn là bày tỏ và nghe qua không văn vẻ chút nào cả ; đó là cách riêng của ông như muốn nói lên hai bề mặt của ngôn ngữ, đồng thời là kết quả của một ý thức cao siêu -heightened consciousness- một điều gì trắc ẩn của ông để phù hợp vào những ý nghĩa khác mà ông nói không thành văn. Vậy thì ý niệm nhất thể trong Hồi Ký Viết Dưới Hầm có nghĩa rằng những lời ghi từ tận đáy lòng (lòng đất) Notes from Underground là một nhập thể biểu hiện của con người kể chuyện, là một dàn dựng vở kịch trong cách diễn trình (để viết). Ở đây được coi như một lối kiểm soát tính chất nghệ thuật lồng vào trong văn viết của Dostoevsky.

 

Đó là những gì mà tác giả muốn viết tất cả những uất nghẹn chìm đắm dưới vực thẳm, một lối thoát cho kẻ bị đè dưới bùn. Đọc trọn vẹn ý nghĩa đó để thấy được ngọn nguồn của Dostoevsky . Ông nói : ‘Tôi thật lòng đọc. Tôi muốn dập tắt mọi cảm giác bên ngoài tất cả những sự cớ đó không ngừng lại để đun sôi trong tôi. Và theo đó cảm giác ngoại giới chỉ có thể đến cho tôi mỗi khi đọc. Dĩ nhiên, chỉ có đọc là giúp tôi giải thoát –kích thích tôi, thắp sáng một cách thích thú và hành hạ tôi’ (I mainly used to read. I wished to stifle with external sensation all that was ceaselessly boiling up inside me. And among external sensation the only one possible for me was reading. Reading was, of course, a great help-it stirred ,delighted, and tormented me) Đó là tư duy tuổi thiếu thời ông (1840). Ông đọc, ông mơ và ông đã tham dự vào một ít trụy lạc. Đây là ba thứ vui khuây khỏa và đấy chính là điều hứng khởi cho ông viết.Vậy thì một trong ba thứ đó, thứ gì tạo cảm quan cho ông? -Đọc là điều bổ ích cho ông. Ông tìm thấy những khác biệt của từng tác giả và nhờ đó ông thấy được ông; với nhân vật Manfred của Byron, với vai trò nhà văn của Pushkin và Lermontov –tất cả là những vóc dáng đầy ấn tượng. Để tâm nhiều về Rousseau. Đi xa hơn nhưng vẫn còn lờ mờ về Kant và Schiller cả triết lẫn thơ. Nghiền ngẫm xong Dostoevsky chỉ tóm gọn trong một câu : ‘quá đẹp và quá cao siêu/ the beautiful and lofty’. Như vậy Dostoevsky đã né tránh được những gì là xấu xa, đê hèn  mà ông đã ‘trụy lạc để tìm nguồn cả hứng’ và từ đó lòng nhủ lòng từng ngày, mãi 16 năm sau Dostoevsky mới cúi đầu xưng tội. Cho nên chi tác phẩm của Dostoevsky đã ẩn giấu, đã nhiều lần lên án, phê bình một phần vượt quá xa tư duy, nói như thế có khác gì buộc tội ông nhưng trong đó ta vẫn tìm thấy nhân tính của con người với những đòi hỏi cả hai mặt tinh thần và vật chất, bất luận ở hoàn cảnh nào. Văn chương của ông trở nên ngọn đuốc thời đại và dần dà thấm sâu vào lòng người như một tâm lý chung.

 

Nhưng nhớ cho; tập truyện nầy dành cho lớp người nằm dưới vực thẳm, những kẻ nằm tận cùng đáy xã hội ‘the underground- man’ chớ không dành cho Dostoevsky; dẫu rằng có cả hai sự ngẫu hợp: giữa người với người -man to man-, giữa ngữ ngôn với ngôn ngữ  -word for word- Thật vậy; đó là cá tính sắc bén của ‘người nằm dưới hầm’ làm tăng thêm bối rối và tăng thêm lời thú tội cho chính ông. Ít nhiều nói lên được cái bi thảm mà con người phải gánh chịu (hoặc nói cho cùng là nỗi buồn khủng khiếp) –đó là giòng chảy không ngừng trong tập truyện Hồi Ký Viết Dưới Hầm/that pervades Notes from Underground. Chắc chắn một điều là Dostoevsky đã trút hết vào đó như chính bản thân ông cùng một hoàn cảnh, trạng huống, một xúc động mãnh liệt của người diễn văn.

 

Như đã nói; tập truyện nầy là của người ẩn núp, người của đè bẹp, người nằm dưới lòng đất là chứng nhân của sự vùng vẫy, tự tủi hổ, bất tuân phục, buông thả, mất lập trường. Một đòi hỏi để được xác thực/genuine, để được minh oan luật tự nhiên của con người l’homme de la nature et de la vérité. Nếu những lời ấy cho là thô lỗ ‘thì không còn chữ nào nói ra đây nhưng đây là hình phạt sửa sai – no longer literature, but corrective punishment; thì đó là quyết định cuối cùng của người diễn từ (Dostoevsky). Chính tiếng thốt đó mà Nietzsche gọi là: ‘âm vang của huyết lệ/the voice of the blood’ nằm trong những lời văn của Dostoevsky. Chúng ta không thấy ‘the underground man/kẻ nằm dưới hầm’ mà chính chúng ta là kẻ nằm dưới hầm để ghi chép thành văn nỗi thống khổ của con người mà mỗi giòng chảy là tiếng chảy của huyết lệ. Cái siêu-thức của Dostoevsky là ở chỗ đó. Dostoevsky đại diện cho chúng ta nói lên lời uất nghẹn. Khổ cho kẻ mù mờ chưa thấu đáo lý thuyết của Dostoevsky nhưng lại bàn nhiều về Dosteovsky. Rõ khốn!

 

Tiểu thuyết của Dostoevsky có một vài điều khó hiểu và khác lạ. Nó mang tính chất bi hài kịch, một diễn tả tột cùng bi thảm của con người qua từng dòng chữ, những gì xẩy ra trong đời đều được gói gém một cách tài tình, tế nhị vừa tinh xảo vừa bén nhạy, tiếng vọng đó từ dưới mặt đất nhà sàn phản lên –this voice from under the floorboards với tất cả thống khổ đều bị cầm lại. Chủ nhân đang nằm trên tiếng than của underground man!

Oái oăm thay người ta không thừa nhận Dostoevsky là unherground man viết hồi ký ở dưới hầm, đời vẫn không cho đó là một lý luận vững chắc của giai tầng xã hội,nhưng mãi về sau người ta mới lãnh hội được con tim của ông, người ta coi ông là đỉnh cao trí tuệ ‘heightened consciousness’ với ý thức cao siêu, người của thế kỷ mười chín. Những biến động xã hội, những đổi thay của con người bao nhiêu sự cớ đó là động lực phát sinh một tư duy ‘dưới hầm’. trong một xã hội sắp đặt trật chỗ để trở nên một thứ văn hóa ngoại lai. Ông cảm thấy một tinh hoa văn hóa Nga đã đi lệch hướng và đánh giá chưa được sâu sắc.

 

Nhận xét của Dostoevsky có thể là một cái nhìn chủ quan, một định kiến về mặt xã hội, về quyền bình đẳng và cũng có thể lo ngại cho nền văn hóa ngoại lai –a spiritual void filled with foreign content; cũng có thể tác động từ tinh thần kỷ nghệ tư bản chủ nghĩa và có thể ảnh hưởng lâu đài tráng lệ ‘the crystal palace’ của những đất nước quân chủ. Hồi Ký Viết Dưới Hầm có một biểu lộ tương tợ với lối cấu trúc tương lai cho tổ chức xã hội chủ nghĩa, có thể đây là một ý ngầm của tác giả muốn khai phóng xã hội như một cuộc cách mạng. Báo chí cũng như phê bình quả quyết về điều nầy, nhưng mặc khác có kẻ lại đồng tình. Nhưng nói cho ngay tác phẩm nầy chỉ để lại một ít hình ảnh lạc hướng trong tư duy điều hợp với hoàn cảnh, nhưng tố cáo nhũng gì sai lầm và những sắp xếp trật chỗ theo luật tự nhiên trong xã hội; người dưới hầm được ông mô tả qua một ngữ điệu tinh xảo, khéo léo.

Hai lần tiểu thuyết nầy được thay mặt cho hai lần diễn đàn và trình diễn trước công chúng nói về sự phát triển và tiến hóa của giới trí thức Nga thời ấy: cảm tính văn chương 1840, và lý luận văn chương thực dụng 1860. Đó là thời gian của tự do và thời gian của hư vô. Một trong những tác phẩm của Dotoevsky là để lòng vào một cách chu đáo trong những bài viết sau cùng như một trách nhiệm giải phóng qua mọi thế hệ với sự bộc phát của chủ nghĩa hư vô, một quan niệm mà ông đã biểu hiện qua tiểu thuyết ‘Qủy sứ/Demons’ (1871-1872) nói lên vóc dáng, khiá cạnh cá tính của mơ mộng hão huyền với những tác phẩm của Stepan Verkhovensky và Pyotr. Ngược lại trong Hồi Ký Viết Dưới Hầm là một phát triển và phản ảnh được những gì trong ý hướng của con người: giai đoạn đầu là thực hành để kiểm soát hành động như cuộc bút chiến chống lại sự phát triển. Giai đoạn hai là giựt lấy chiến tháng từ những khuynh hướng mơ mộng hão huyền đã xâm nhập vào họ. Hoàn cảnh được tiếp nối của hai giai đoạn trên dường như dẫn đường cho chúng một khám phá mới. Tuy nhiên, người nằm dưới hầm là một thể loại khó cho một lý lẽ tư kỷ ‘rational egoist’ có quá nhiều hơn những gì ông muốn biến thành thể loại lãng mạn. Ông cố đưa vào một thứ văn chương bóng bẩy và tình tứ, chỉ thấy duy nhất ở trang cuối tập truyện một chút gì nhẹ nhàng: “ Xin lỗi, thưa ông, nhưng tôi không biện minh cho chính tôi với tất cả những gì tôi muốn nói ra đây. Xa cách tôi mà chính tôi đã quan tâm, tôi chỉ mang lại đây một cái gì tuyệt vời vô cùng tận trong đời sống của tôi; ngay những gì ông không dám mang theo dù cho nửa dặm đường…” (Excuse me, gentlemen, but I am not justifying myself with this ‘allishness’. As far as I myself am concerned. I have merely carried to an extreme in my life what you have not dared to carry even halfway…)

 

 Cái từ  ‘qúy ông/gentlement’ Dostoevsky dùng ở đây như một bày tỏ, nhấn mạnh điạ vị xã hội có đẳng cấp, xuyên qua hầu hết trong ‘nhật ký/notes’, trong khi ấy nó không tỏ rõ ngôi thứ hai ‘ông’ một cách bình thường mà ở thời đó (1860) thể loại ‘thưa ông’ dành cho người có học và giới thượng lưu. Đây là dấu hiệu thử thách qui phục và chấp hành một cách nghiêm chỉnh không thể làm giảm đi sự hiện hữu của con người. Đó là những gì mà ông đưa ra như nhắc nhở về một học thuyết của ‘lý lẽ tư kỷ/rational egoism’ một điều hợp sáng tỏ và có lợi.

Con người từ dưới hầm lý sự, bắt bẻ là nhân vật đối thủ của ông là kết quả những quan niệm đã mang lại để đi tới tuyệt đỉnh của cuộc đời. Đó chính là kết quả dành cho Dostoevsky. Tuy nhiên đây không phải nói lên một cá tính nồng cốt hay đặc nặng vai trò chủ lực cho một khuynh hướng, dù là khuynh hướng đảo khuynh, mà ở đây diễn trình của tự nó, người đọc có thể tìm thấy ở chính mình; nhưng đại đa số nội quan đó là nằm trong một nội lực kiên cố. Đại đa số của mỗi con người hoàn toàn không thêm một ý niệm học nào cả trong cùng một ý thức của dữ kiện xẩy ra mà như sẳn có lý lẽ của l’homme de la nature et de la vérité, hành động đó như một khí cụ và là đối tượng chủ thể cho một lý thuyết tự nhiên có từ gốc rể của xã hội mà ra. Một tập hợp không có chi khác lạ nhưng bao gồm, đan kết vào nhau, như hoà âm cùng thể điệu, tất cả được coi như biểu đồng tình của đại đa số. Vậy thì hoà âm điền dã hay hòa âm tiết điệu? Thưa rằng; người nằm dưới hầm không thể nói -hắn chưa bao giờ tìm thấy ở đó- Nhưng hắn biết hắn không tìm thấy sự cớ, hắn ý thức được, bởi trong tâm can hắn không hòa hợp cho một tiết điệu như thế, hắn không chia sớt gì được cả mà là đưa tới cái ngọn nguồn của đau đớn mà đó cũng là ngọn nguồn đưa tới nhận thức.

 

What the principle of this harmony is, the underground man cannot say; he has never found it. But he ‘knows’ he has not found it; he knows, because his inner disharmony, his dividedness which is the source of his suffering, is also the source of consciousness.

 

 

     Xứng đáng một điều cho Dostoevsky phủ nhận vai trò mà có mình trong đó, tuyệt đối không ‘nhân cách hoá’ nhưng hầu như bị đời từ chối về cái nhìn chủ quan qua thế gìới riêng tư của ông như có ý bắt buộc. Dù ông đã rốt ráo diễn tả tận cùng của người nằm dưới lòng đất ‘underground man’ như ám chỉ con người ông phải chịu khồ ải dưới bất cứ hoàn cảnh nào qua bao ‘triều đại’; hay quá luân lý hay quá phê phán mà làm cho ngòi bút của Dostoesky nhiều lúc đi vào ngõ cụt. Song le; ít nhiều ở Dostoevsky cũng nói lên được nỗi bi thảm của con người trong tiểu thuyết Hồi Ký Viết Dưới Hầm. Một dấu ấn thời đại. Nếu nhìn trên bình diện để phê bình thì văn phẩm của Dostoesky không phải thiếu tính nhân bản. Một số triết gia, văn nhân Pháp về sau cũng đồng tình trong lời văn của Dostoesky vẫn có chất siêu hình và hư vô nằm rải rác trong những tác phẩm của ông. Nhưng phải hiểu cho rằng đó là một dàn trải nội tại, một cái gọi là chết-chưa-chôn trong cái đang sống ‘a sort of death-in-life’ chính đó là sinh tồn thảm cảnh ‘birth of tragety’. Cái cảnh nầy giống như vai trò của Raskolnikov và Mitya trong Anh Em Nhà Họ Karamazov. Nhưng trước hay sau, lâu nay hay bây giờ tất cả con người là những kẻ nằm dưới lòng đất của những năm tháng khủng khiếp l’année terrible. Một chấp nhận thương đau cho những kẻ-khốn-cùng trong Les Misérable (person/man) của V. Hugo.

 

‘Biết bao tiết điệu buồn chỉ có trong Hồi Ký Viết Dưới Hầm là đáng giá ngàn vàng!/How much the mere tone of  Notes from Underground is worth!’ ( Lev Shestov).

 

Nhà triết học Shestov, nhà phê bình Mochulsky và hầu hết độc giả Nga cho ‘Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ là ‘lạ lùng/very strange’ nghĩa là nội dung khác và mới mang lại một tư duy cách riêng không giống những người đồng thời và những nhà văn đi trước. Họ cho truyện của Dostoevsky có cái chất vụng về mà cân nhắc ‘deliberately clumsy’ dù rằng khuynh hướng nghiêng về mặt nghệ thuật luân lý. Cho nên chi văn chương của Dostoevsky chứa đựng một âm điệu đầy màu sắc, ông xử dụng cái gọi là: ‘chỉ là ngữ điệu/mere tone’, một tiếng nói mà chỉ có tiếng nói của kẻ dưới lòng đất mới hiểu thấu nỗi thống khổ đó.

 

Một tư duy tợ như có chất triết bao trùm hoặc rải rác trong những tác phẩm của ông. ‘Người dưới hầm’ không có thuật ngữ của những gì gọi là triết học cả. Trong khi đó Dostoevsky chỉ lồng vào truyện những ngữ ngôn như châm biếm, như trào lộng để cho nhân vật trở nêng sống động và hào hứng, bên cạnh đó ông xử dụng nhiều chữ đọc lên khó hiểu và không diễn giải làm cho người đọc đâm ra nghi vấn. Chính cái sự khó hiểu mà làm cho người ta tưởng như là triết thuyết. Hay đó là lối ‘chơi chữ’ của Dostoevsky.

 

Trước khi trích dẫn một đoạn ngắn trong: ‘Hồi Ký Viết Dưới Hầm’ tưởng cũng cần đọc qua đôi điều của tác giả phân tích về chữ ‘chép’ và ‘ghi’ như sau:

‘Người sáng tác ra hai chữ ‘chép’ và ‘ghi’ chính nó là một nghĩa; đương nhiên là chuyện hoàn toàn hư cấu. Tuy nhiên vẫn có nhiều người coi đây như là chuyện của người viết ghi, chép việc để nhớ lại, không những chỉ điều đó đã đành mà còn ghi lại sự sống của con người trong xã hội của chúng ta đang sống; nó cũng một hoàn cảnh dưới dạng thức cân nhắc suy nghĩ, nói chung những gì như đã nêu là hình thức xã hội của chúng ta đang sống. Tôi mong sao những  điều nầy là lợi ích trước khi đương đầu của tập quán công cọng, một ít nhiều minh bạch hơn những gì thông thường xẩy ra, một trong những vai trò giữa lúc vừa mới đi qua. Người nằm dưới hầm là nhân vật đại diện của một thế hệ, cái sự lý đó còn sống ngoài cuộc đời này.Trong từng khúc đoạn , từng mảng vở gom lại dưới tiêu đề ‘Người dưới hầm’ một nhân vật tự giới thiệu mình, một cảnh tượng của đời hắn, tìm kiếm như đã xẩy ra, một lý do trong sáng thì tại sao hắn hiện ra đây mà phải hiện ra giữa chúng ta. Trong cái vỡ vụn vẫn tiếp nối và sẽ đến trong cái “viết lại” thực tế của con người về một điều rất cụ thể; đúng thế! ngay cả cuộc đời cũa hắn (underground man) đang sống’.(F.M. Dostoevsky)

‘Both the author of the notes and the ‘Notes’ themselves are, of course; fictional. Nevertheless, such persons as the writer of such notes not only may but even must exist in our society, taking into consideration the circumstances under which our society has generally formed. I wished to bring before the face of the public, a bit more conspicuously than usual, one of the characters of a time recently passed. He is one represen tative of a generation that is still living out its life. In this fragment, entitled ‘Underground’ this person introduces himself, his outlook, and seeks, as it were, to elucidate the reasons why he appeared and had to appear among us. In the subsequent fragment will come this person’s actual “notes” about certain events in his life.(F.M.D).    

 

                     HỒI KÝ VIẾT DƯỚI HẦM / NOTES FROM UNDERGROUND

Phần I.

Dưới Hầm / Underground. Đoạn I. (Trang đầu)

 

     Tôi là con người bệnh hoạn…Tôi là con người đốn mạt xấu xa, hiểm độc. Một con người chả ai thèm ngó. Tôi nghĩ gan ruột tôi nhiễm bệnh. Tuy nhiên, tôi không biết một chút gì về bệnh trạng của tôi và tôi cũng không chắc điều gì làm cho tôi đau đớn. Tôi cũng chả điều trị và chưa bao giờ điều trị, dù tôi yêu chuộng y khoa hay một lương y. Còn nữa; thưa thiệt tôi cũng là thằng người mê tín dị đoan tột bực, đúng thế; nhưng cuối cùng rồi tôi lại nghĩ đến khoa học (tôi đủ trình độ tri thức chớ không phải mù quáng tin vào chuyện mê tín, nhưng tôi đã mê.) Nhưng không, thưa ngài, tôi từ chối mọi sự đối đãi như thế của một con người xấu xa, hiểm độc như tôi. Giờ đây ông sẽ không nhìn nhận tôi là con người đạo đức, tốt lành như những gì ông hiểu về tôi. Đúng đấy; thưa ngài, nhưng tôi hiểu thấu đáo. Dĩ nhiên là tôi sẽ không hành động như thế, điều đó có thể giải thích rõ ngọn nghành, ai là người đau thương dùm cái trường hợp nầy từ nỗi khốn nạn trong tôi. Tôi hiểu một cách hẳn hoi rằng là tôi sẽ không còn cách trị nào hơn ‘một thứ đồ bỏ’ bởi không một thầy thuốc nào chịu chửa trị những căn bệnh như thế; tôi biết rành mạch sự cớ đó hơn ai hết vì tất thảy những gì ở đây, tôi chỉ là thằng chịu thiệt thòi ở chính tôi và chẳng có ai khác hơn. Nhưng chứng nào tật nấy, nếu như tôi không đối xử tốt, khó cho tôi bởi tôi vốn là thằng đốn mạt. Gan ruột tôi đau đớn; đúng, đau đớn còn tệ hơn trước!

Tôi sống hôm nay cũng như hôm qua -chừng hai mươi năm. Bây giờ tôi bốn mươi. Tôi phục vụ như thường dân; mà cũng không lâu. Tôi là một viên chức hư đốn. Tôi là một thằng ăn nói thô lỗ, vụng về mà cứ cho là hay. Sau đó; tôi không thể chấp nhận sự mua chuộc như vậy, tôi phải tán dương chính tôi mới phải, ít ra cũng phải thế! (Một cái lanh chanh, nhưng tôi sẽ không vượt qua được cái tính đó. Tôi viết, tôi nghĩ có thể đến từ cái loanh quanh, vớ vẩn vụng về, đôi khi rất chậm tiến, nhưng bây giờ tôi thấy ở chính tôi có một cái gì là vênh vang một cách đê hèn tầm thường trong đó -tôi quyết tâm sẽ vượt qua).

Trong khi đó có người đưa đơn thỉnh nguyện đặt trên bàn mà nơi đây tôi đã ngồi –tôi nghiến răng làm nghiêm ở lúc đó và cảm như thoải mái lắm khi mà tôi hành xử một cách giận dữ với người ta. Họ là những con người rụt rè, khúm núm qua từng cách thức: của người cầu xin, tôi hiểu. Nhưng thưa ông biết cho dọc theo đó là lớp ưa khoe khoang, đỏm dáng của đám viên chức, nhất là việc nầy không có tôi trong hàng ngũ đó. Ông ta một mực từ chối lời đề nghị của tôi và  giữ cứng ngắt tay kiếm của ông một cách dữ tợn. Tôi đã từng kề vai sát cánh với ông trong quân ngũ với tay kiếm chỉ huy của ông trong vòng một năm hay nửa năm gì đó, ông quên sao! Cuối cùng rồi tôi cũng thắng thế. Tôi chấm dứt một cách tế nhị. Tuy nhiên; đó chỉ là thời gian còn trẻ của tôi. Nhưng thưa ông biết cho; việc gì là chính yếu về cái hư đốn, hiểm độc của tôi? Tất thảy mọi hành động của tôi là chính xác, một sự ghê tởm lớn lao nhất, rõ ràng nhất đặc trong tôi một ý thức thẹn thùng, xấu hổ mỗi khi nghĩ đến, cho dù một giây phút ngắn ngủi hiện trong tôi một cách đằm thắm đi nữa, không những chỉ có thế mà không còn cái thâm độc đê hèn, nhưng dẫu sao cũng là điều đắng cay cho con người, điều đơn sơ mà làm cho tôi hoảng sợ tợ như con chim sẻ vô tình nhấc cánh bay, tôi cảm thấy dễ chịu cho chính tôi. Tôi sủi bọt mép ở miệng nhưng để lại từng mảng trên miệng, hãy cho tôi một tách trà với ít đường, có lẽ nhờ đó mà tôi tĩnh tâm. Tôi sẽ làm cái gì lớn lao cho một tâm hồn dịu dàng hơn. Về sau tôi sẽ  nghiến răng chịu đựng và nhận sự đau đớn đè lên đầu, lên cổ từ đó làm cho tôi mất ăn, mất ngủ một vài tháng cho vơi sự tủi nhục. Hay đúng ra là thói tính của tôi…

 

 Phần II

Thích Nghi Mùa Tuyết Ướt / Apropos of The Wet Snow. Đoạn X. (Trang cuối)

 

Xin lỗi; thưa qúy ông, nhưng ở đây tôi không biện minh những gì cho chính tôi với tất cả những gì đã nêu ra. Xa hơn nữa là một quan tâm ở chính tôi, tôi chỉ mang ra đây một cái gì đơn thuần vô hạn trong cuộc đời tôi, những gì mà ông không dám đưa ra đây dù chỉ một nửa dặm đường, hơn thế nữa; ông sẽ đưa ra những gì hèn nhát và cho đó là cảm thức tốt và rồi tìm lấy những gì thuận lợi trong cái sự thế mà ông tự lừa dối chính ông. Vậy thì tôi; có lẽ, bỏ hết dù có nhiều cái cần sống hơn qúy ông. Hãy đết gần mà thấy! Chúng ta không biết nơi đây, nơi mà chúng ta đang có cuộc sống ngay bây giờ hoặc những gì đã có hoặc những gì chúng ta đã kêu gọi! Xa hơn nữa; như tự chúng ta chia xa, không cần sách vở, và rồi chúng ta sẽ đón nhận sự từ chối tức thì; thua! Chúng ta sẽ không biết lấy gì để chấp nối, cầm giữ được gì: tình yêu là gì và ghét thương là gì, cái gì ao ước và cái gì tuyệt vọng. Đó là những gì chất chứa trong ta -ngay cả những người đàn ông là gánh nặng –đó mới thực đàn ông, ta làm chủ được thể xác và máu xương; chúng ta không hổ thẹn về điều đó, chúng ta suy nghĩ đó là sỉ nhục  và tiếp tục thử xem một vài điều không hề xẩy đến mà con người phải hứng chịu tất cả (omni-men). Chúng ta còn sinh nở và chúng ta không ngừng sinh nở cho sự sống làm cha ông và rồi chúng ta ham sống nhiều hơn. Chúng ta thu tập sở thích đó. Chúng ta sẽ sớm có những dự tính để nãy sinh những ý niệm tốt hơn. Được như thế là đầy đủ; tôi không muốn viết thêm nữa những gì từ ‘người dưới hầm’…

 

Tuy nhiên chữ ‘chép/ghi/viết’ thì đó là chuyện nghịch lý, mâu thuẩn không thể chấm dứt ở đây được. ‘Người Dưới Hầm’ sẽ không thể nào giúp gì cho chính hắn để hắn tiếp tục hành động. Nhưng; hình như điều đó cũng đến với chúng ta và đó là điểm dừng tốt nhất. (*)

 

VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab. tuyếtướt 1/12/ 2012)

 

*Fyodor Mikhailovvitsh Dostoevsky. (1821-1881)

Ông sanh: 11/11/1821 ở nhà thương thí Moscow. Nga. Từ nhỏ đến lớn ông đi qua nhiều giai đoạn căm go.

Ông là một nhà văn học lý luận tâm lý có tiếng trong văn đàn thế giới. Ông để lại nhiều tác phẩm qúy giá.

Ông chết: 8/2/1881. Chết đột ngột chứng băng huyết phổi. Mộ phần ở St. Peterburg. Nga.

 

SÁCH ĐỌC: ‘Notes From Underground” Bản Anh ngữ. của Richard Pevear và Larissa Volokhonsky. Random House ,Inc New York. USA 1993.

(*) Trích dịch: ’Hồi Ký Viết Dưới Hầm / Notes From Underground’ 2 phần rút ngắn. vcl chuyển sang Việt ngữ.

 

TRANH VẼ :‘Cuối Khúc Giao Hưởng/End of Symphony’.Khổ 12’X16’trên giấy cứng.Acrylics+Housepaint+

Mixed Media. vcl 2011.

 

‘Cuối Khúc Giao Hưởng/End of Symphony’ vcl#12102011.

 

Võ Công Liêm
Số lần đọc: 3584
Ngày đăng: 28.12.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thơ cần thiết cho ai: LEONARD COHEN: MANG ANH XUỐNG MỘT DÒNG SÔNG - Nguyễn Đức Tùng
Cá thể và tha nhân - Trịnh Ngọc Thìn
ECCE HOMO / LẬT ĐỔ MỌI GIÁ TRỊ - Võ Công Liêm
Đôi điều nhớ lại về công việc biên tập sách tiểu luận phê bình ở nhà xuất bản hội nhà văn - Lại Nguyên Ân
Thập đại Bịnh - Nguyễn Văn Thuận
Mrs. Dalloway - Nguyễn Thành Nhân
Nhà Văn Nam Cao Và Giọt Nước Mắt - Chế Diễm Trâm
Đông Kinh Nghĩa Thục – Một Mẫu Mực Về Đổi Mới Giáo Dục Một Cách Căn Bản Và Toàn Diện - Vũ Thế Khôi
Đức tin trong nguồn thơ Hàn Mạc Tử - Đặng Tiến
Tiếp Nhận Truyện Kiều Dưới Góc Nhìn “Thi Trung Hữu Họa” 2 - Trần Đình Khiêm
Cùng một tác giả
Lệ (thơ)
Đĩ về hưu (truyện ngắn)
Không dám mô (truyện ngắn)
Người Khách Lạ (truyện ngắn)
Đêm Màu Hồng (truyện ngắn)
Jazz (thơ)
N Ụ (truyện ngắn)
Thi sĩ và thiếu nữ (truyện ngắn)
Ka ra ô kê (truyện ngắn)
Người treo cổ (truyện ngắn)
Chút tình còn lại (truyện ngắn)
Thể tính thiền (tiểu luận)
Cụm hoa cúc sao (truyện ngắn)
Lời ru (thơ)
Thể tính thiền (tiểu luận)
Đi chơi xa (truyện ngắn)
MA-YÔ-CA* (truyện ngắn)
Hy Lạp (tiểu luận)
Phương thức (tiểu luận)
Đất lạ người quen (truyện ngắn)
Vào với thơ (tiểu luận)
Một chuyến đi Tây (truyện ngắn)
Cho Tôi (thơ)
Hư vô phản kháng (tiểu luận)
Đi tìm thú vui (tiểu luận)
Nẻo về của Ý (tiểu luận)
Đi vào cõi thơ (tiểu luận)
Thi ca đương đại (tiểu luận)
Vi diệu pháp kinh (tiểu luận)
Thiền Nhật Bản (tiểu luận)
Đam mê (thơ)
Sa mạc (thơ)
Cho tôi (thơ)
Dòng sông đêm (truyện ngắn)
Chơi chữ (tiểu luận)
Bạn văn và tôi (truyện ngắn)
Đạo phật (văn hóa)
Ngày cuối của Yên (truyện ngắn)
Định niệm (nghệ thuật)
Cuồng si (truyện ngắn)
Ung thư thiền (tiểu luận)
Chân dung tự họa (nghệ thuật)
Truyện rất ngắn (truyện ngắn)
Ý thức vũ trụ (nghệ thuật)
Người khách lạ (truyện ngắn)
Thân tâm nhà Phật (tiểu luận)
Chuyện lan man (truyện ngắn)
Socrates (tiểu luận)
Sư ông (truyện ngắn)
Điêu khắc Mỹ (tiểu luận)
Tình câm (truyện ngắn)
Du Tử Lê và Tôi (tiểu luận)
Văn chương là gì (tiểu luận)
Đại dịch (tiểu luận)
Kẻ ăn mày (truyện ngắn)
Tư tưởng (tiểu luận)
Mẹ ơi (thơ)
Phân tâm học (tiểu luận)
Thanh cao là gì? (nghệ thuật)
Làm thơ (tiểu luận)
Vẽ đàn bà (hội họa)
Làm văn (tiểu luận)
Tu thiền (tiểu luận)
Nội trú (truyện ngắn)
Cảm thức (tiểu luận)
Phật pháp là gì? (tiểu luận)
Sát na (thơ)
Holy cow (thơ)
Xem tranh (tiểu luận)
Chung một cuộc tình (truyện ngắn)